XĂM TẢ QUÂN SỐ 65
Nhị canh tam canh nguyệt,
Nhứt luân quang hiệu khiết.
Dần Thân tất hữu hỷ,
Tỵ Hợi phương nan chiết.
NGHĨA
Trăng mọc lối canh ba,
Một vùng yến sáng loà.
Dần Thân thời rất tốt,
Tỵ Hợi nó phui phanh.
GIẢI
Dưng nữ sảng kinh,
Tỵ Dần nhựt lâm.
Sinh nữ viên chinh,
Bôn vu hữu khanh.
NGHĨA
Có nghén con gái, khi ặ ẹ thời có dục dặc một chút, nhưng đẻ con gái thì vuông tròn, đến ngày Dần, ngày Tỵ mà đẻ thì bình yên vô sự.
MẬT PHƯỚC TỰ
Người gặp quẻ này, vận số lúc lên lúc xuống như ánh trăng đêm khuya, khi tỏ khi mờ. Mọi việc còn nhiều bấp bênh, được mất thất thường. Hãy giữ tâm bình an, đừng nóng vội. Thành tâm cầu khấn chư Phật, Bồ Tát gia hộ để được sáng suốt nhận định thời cơ.
LỜI BÀN
Bổn mạng: Bổn mạng không được tốt. Trong mình nhiều điều phiền muộn, ít khi nào được vui vẻ nên phải phòng sự này sự nọ cho lắm và phải vái van, may mới được bình yên.
Gia đạo: Gia đạo thời buồn bực không vui, làm việc chi thời được đó mất đó, vậy nên phải tu nhân tích đức và van vái cúng kiếng thời mới được.
Mưu sự: Mưu sự thời vận đã suy, mưu sự không được sự gì mà phải bị tai nạn nữa, vậy nên an thường thủ phận là hay hơn.
Cưới gả: Cưới gả thời hai tuổi xung khắc, nếu có vầy hiệp nhơn duyên về sau vợ chồng cũng chích mắc, không song toàn được.
Chiếm bịnh: Bịnh thế trầm trệ phải lo chạy thuốc thang và van vái cúng kiếng, may Trời Phật cứu độ cho đến ngày Dần, ngày Thân hoặc may bớt.
Cầu tài: Cầu tài thời cũng nhiều phương, ngày Dần, ngày Thân tất có tài, song khi thạnh có lúc suy, phải ở nhơn đức và giữ gìn cho lắm mới được.
Cầu quan: Cầu quan vận mạng đương tốt, khi đầu có trục trặc một đôi lần, song về sau người trên soi xét, đến ngày Tý, ngày Dần cũng có lẽ được.
Xuất hành: Xuất hành được bình yên vô sự. Dần Thân hai ngày chắc có tin mừng.
Kiện cáo: Kiện cáo thì hao tốn, mà việc lâu rồi lắm, phải lo hoà giải, may đến Dần, Thân, Tỵ, hợi thì việc mới xong.
Mất đồ: Đồ này đã đem đi xa lắm, đến ngày Dần ngày thân mới có tin, ngày Tỵ, ngày Hợi hoặc may mới kiếm được.
Tích Cổ
VUA LÝ NHÂN TÔNG CẦU TRỜI
Năm 1118 thời vua Lý Nhân Tông, Đại Việt xảy ra đại hạn. Trước tình cảnh này, nhà vua đã thân hành làm lễ cầu đảo và “được mưa”. Đây là lần đầu tiên chính sử ghi nhận việc một vị vua nhà Lý trực tiếp cầu mưa. Năm 1126, khi mưa dầm kéo dài gây ảnh hưởng đến mùa màng, vua lại sai làm lễ cầu tạnh. Các nghi lễ này được thực hiện tại chùa Báo Thiên.
(Nguồn tham khảo: “Đại Việt Sử ký Toàn thư”, Bản kỷ, Quyển III)

Bài Viết Liên Quan
Bài 59: Tập San Mật Phước
Lão đây có ý muốn làm. Tập san Mật Phước luận đàm chuyện thiên Cũng mong truyền bá Phật quyền...
Phần I – ĐIỀM BÁO GẶP TRÍ ĐÀM PHÁP SƯ
Trên chính sử thiết thực có một "Đường Tăng" thật sự. Ông ta là một vị tăng vĩ đại ở...
PHẦN 5: GẶP GIỚI HIỀN PHÁP SƯ
Đường Thái Tông năm Trinh Quang Thứ năm (631 AC). Huyền Trang 32 tuổi đã phải trải qua trăm ngàn...
Bài 30: Pháp đàn giải yếm
Vài người hiền sĩ quê mình. Gửi thư hỏi lão tình hình quốc gia. “Làm sao giúp được quê nhà...
Bài 8: Phật Quyền Độ Giang Sơn
Phật Quyền dạy các môn đồ Rèn thân tu đức theo Bồ Tát xưa Siêng năng rèn luyện sớm trưa...
Xăm Tả Quân Lê Văn Duyệt – Xăm Số 21
XĂM TẢ QUÂN SỐ 21 Viên tính tu đương cận báo thì,Quới nhơn mạng nội chánh phò trì,Thời lai hoán...
CHƯƠNG III: II – CÁC KINH KHÁC TUYÊN THUYẾT VỀ THẦN CHÚ THUỘC PHẦN MẬT GIÁO
II. CÁC KINH KHÁC TUYÊN THUYẾT VỀ THẦN CHÚ THUỘC PHẦN MẬT GIÁO Ngoài hai bộ kinh căn bản Đại...
Bài Pháp Số 5: Đại Bồ Tát Duy Ma Cật nhắc nhở Đại Ca Diếp về chân lý tu hành
Đại Ca Diếp (Mahākāśyapa) là một trong mười đại đệ tử của Phật Thích Ca , nổi tiếng với danh...