Giảng lần nhất!
Nguyên thủy phật học (530-370 BC)
Những thời kỳ của sử phật học chúng ta từ điểm phát xuất phật học ở thế kỷ thứ 6 (trước công nguyên) đến thế kỷ thứ 11 (sau công nguyên). Khoảng một ngàn năm trăm năm, chia ra làm 6 giai đoạn như sau:
- Nguyên thủy phật học
- Bộ phái phật học
- Thời kỳ sơ khai của đại thừa phật học
- Tiểu thừa phật học
- Thời kỳ trung hoạn đại thừa phật học
- Thời kỳ sau cùng của đại thừa phật học
Thời Kỳ Nguyên Thủy Phật Học
Bản thân đức phật và thời kỳ của ba bốn đời . Hậu đại của sự truyền thừa . Trong thời kỳ này nội bộ chưa bị phân hoá, cơ bản tư tưởng nhất trí. Theo sự tính của niên đại phật nhập diệt năm 486 (BC) thọ 80 tuổi. Cho nên tính ra đức phật sinh vào năm 565 (BC). 35 tuổi thành đạo. 530 (BC) phật học chia ra thành bộ phái, sau khi phật nhập diệt. Một trăm mấy mươi năm sau. Bởi thế chúng ta thiết định thời kỳ thứ nhất là năm 530-370 (BC).
Học thuyết nguyên thủy phật học chủ yếu xuất sứ là “Kinh” và “Luật”. “Kinh” có 2 đại loại , Bắc Truyền gọi là “A Hàm”. Nam Truyền gọi là “Ni A Da”, trước đó trừ “Tứ Đại Bộ Ngoại” còn có một “Tạp Tạng Bộ” người đời sau trừ ra cùng với Bắc Truyền đối chiếu bốn bộ ra, còn một tiểu bộ. Nam Bắc cùng đồng bốn bộ là “Trường Bộ, Trung Bộ, Tạp Bộ và Tăng Nhất Bộ”.
Cơ bản nội dung của “Luật Bộ” là giới điều. Sau này phụ thêm truyện duyên khởi để giải thích rộng rải các sự tích và phụ chú. Cộng lại có ba bộ phận. Hiện tại lưu truyền “Kinh” và “Luật” qua sự tang giảm của các bộ phái, làm đượm màu sắc của bộ phái. Muốn tìm ra nguyên thủy của phật học, tất phải làm rất nhiều công việc nghiên cưú, phân tách không phải là việc đơn giản. Các học giả tây phương đã bỏ ra không ít công sức. Nhưng họ không thể dùng các bản tài liệu Hán dịch (các tài liệu Bắc Truyền được bảo tồn trong các bản Hán dịch). Và nghiên về tin tưởng các văn bản Pali. Thậm chí còn nghĩ đó là do Thích Ca nói ra, thì không thế không nảy sanh thiên kiến. (Edinburgh)? Người Đức. (Davis)? Người Anh. Khi nghiên cưú bản văn Pali thì dùng phương pháp tìm các khác biệt trong các Kinh, Luật củ mới. Rồi sau đó từ trong ấy tìm ra nguyên thủy phật thuyết, đó là phương pháp củ từ 40 năm trước. Đến nay vẫn còn ảnh hưởng sự phân tách của người Nhật là. Trước nhất đem sự truyền thừa của hai phần Nam, Bắc (Kinh, Luật) so sánh nhận định sự tương đồng của hai bộ (Nam, Bắc) là nguyên thủy phật nói. Như tỷ kỳ áp dụng phương pháp này vào chính trị về sau, vũ tỉnh Bá Thọ và những người khác, trừ ra đem cả hai tư liệu đối chiến tỷ so sánh giao ra. Còn từ thể hệ học thuyết, kết cấu logic và logic phương diện phát triển tiến hành phân tích cụ thể, dùng để xác định phần nội dung nào, thuộc về có trước và từ đó dẩn nhập phương pháp của (Tỷ Kỳ) có phần tiến bộ thêm một tầng. Nhưng cũng khó hồi phục sự thật của sự nguyên thủy phật thuyết.
Do bộ phái đã trãi qua mấy lần phân liệt tư liệu là do bao lần phân liệt lưu lại, ảnh hưởng lẫn nhau, mô phong lẫn nhau, bỗ xung liên tục. Dầu có những điểm cộng đồng cũng không thể coi là sự khởi đầu của thuyết. Dã lại tiêu chuẩn là sống. Bây giờ xét lại phải từ trong kinh luật hiện tại, tìm kiếm sự kiện vô cùng khó khăn.
Bản nguyên của giảng thuyết là lấy Thích ca làm trung tâm của sự lưu hành của học thuyết. Cố gắng tìm rat rung tâm điểm của vấn đề, cộng thêm sự tổ chức tức làm ra nguyên thủy phật học. Không tái lập các sự tìm kiếm nhỏ nhặt, như các phân tích gia về trước.
Tiết Thứ Nhất . Thời Đại Thích Ca.
Lúc bấy giờ (thế kỷ thứ 6 BC)
Đặc điểm của xã hội nô lệ.
Các quốc gia trong lưu vực Hằng Hà (Sông Hằng) Trung Ấn có số quốc gia có thể chế Cộng Hòa.
Các nước lớn có mưu đồ thôn tính.
Ngoài ra còn có tính tộc chế cấu tạo thành sự mâu thuẩn giữa các giai cấp.
Phản ảnh của các giới tăng lữ và bà la môn giáo đối khán lại lục sư.
Tư tưởng duy vật phát triển.
Quốc gia của dòng tộc Thích ca.
Cảnh ngộ của bản thân Thích ca.
Sự bình sinh và truyện ký.
Có liên quan đến học thuyết và một số hành sự.
Thích ca ở vào thời đại thế kỷ thứ 6 đến thứ 5 (BC). Lúc bấy giờ xã hội Ấn là một chế độ sở hữu nô lệ, đã kiến lập quốc gia, thành thị và cũng phát triễn thương nghiệp. Nhưng chế độ nô lệ của Ấn và Tây Phương có sự khác biệt nô lệ, không bị áp bức vào các sự sản xuất vĩ đại. Và cũng không bị bốc lột thái qúa như Tây Phương. Do đó không có bộc phát hay sanh ra những sự bạo động lớn của người nô lệ, với những nói trên. Họ chỉ là một loại hình thức của chế độ sơ khởi của sở hữu nô lệ, và về sau thì ngừng trực ở hình thức đó và không phát triễn gì hơn nữa.
Tình huống của xã hội Ấn Độ phát triễn là từ Tây Bắc từ từ di chuyển về hướng đông. Trước tiên đến thượng du lưu vực sông hằng tại sông Ấn Độ cửa khẩu sông Diêm Mâu Na là một dãy bình nguyên, và còn là trung tâm của Ấn Độ. Đến khoảng trước và sau thế kỷ thứ 6 (BC) phát triển đến hạ du lưu dực Sông Hằng (tức cỏi trung Ấn) thành lập rất nhiều thành thị làm trung tâm của quốc gia. Một số cho là có 16 Đại Quốc (văn Pali tăng nhất bộ đệ nhất, đệ tứ, Hán dịch Trung Hàm, quyển 55 (Trì Chay Kinh) và trong giáo điển của Lão Na giáo, đều có ghi lại có 16 nước). Đến thời đại Thích ca, tình thế 16 nước đó cũng có biến chuyển rất lớn, trong đó nước lớn hùng mạnh nhất là ở phía nam Sông Hằng là Ma Kiệt Đà. Bên Tây Bắc là Kiều Tát La. Đông Bắc là Bạt Lão (Kinh Duy Ma) lấy bối cảnh của nước này. Tình hình chính trị của các nước cũng không giống nhau. Có nước là Quân Chủ Chế, có nước chế độ Cộng Hòa. Cộng Hòa Chế cũng có người thống trị, nhưng có chế độ hội nghị những sự việc quan trọng thông qua sự nghị hội, và tất cả mọi người quyết định. Đó là tàu dư của chế độ công xã nguyên thủy lưu lại.
Cộng Hòa thể chế chỉ tồn tại ở Đông Bắc như và dòng tộc Thích ca là tỳ la vệ ở trong hoàn cảnh sẽ bị hoàn toàn tiêu diệt (Bản Sanh Kinh) và truyện của đức phật phản ảnh tình trạng lúc bấy giờ. Trong các nước có chế độ tộc tính (Tộc tính tức là “Oa Nhĩ Na” nguyên nghĩa là màu sắc. Người nhã lợi an màu da trắng, chiếm địa vị thống trị. Người thổ dân màu da đen bị thống trị. Từ đấy phân ra 2 tầng lớp giai cấp). Khởi đầu chỉ có 2 loại tộc tính , sau này trong tộc tánh của người nhã lợi an lại chia ra Bà La Môn, Sác đế lợi, Phục Sá. 3 dòng tộc tánh, bà la môn trước nhất là giúp cho Sác đế lợi tiến hành thống trị, nắm quyền văn hoá, tôn giáo. Về đến thời đại của Thích ca, Sác đế lợi đối với đặc quyền của Ba la môn có những bất mãn. Nên ủng hộ các loại tư tưởng phi Ba la môn, muốn cấu thành một trận tuyến phản Bà la môn. Tộc tánh Phục Sá bao gồm các giai cấp nông, công thương bị bốc lột rất nặng, lúc đang thời do thủ công nghệ phát đạt, thương nghiệp phồn thịnh (với Miến Điện, Ba Tư, Á Rập v.v.) đều có mậu dịch qua lại, thương nhân tích lũy tài phú. Đối với chính trị có sự yêu cầu mảnh liệt, những lực lượng xã hội hình thành khiến cho Bà la môn trên chính trị, tư tưởng các mặt thống chế thế lực từ từ suy yếu. Đương thời sanh ra đại biểu các lợi ích của các giai tầng, có 6 phái triết học (Kinh Duy Ma, Phẩm Đệ Tử, Trường A Hàm, Sa Môn Qủa Kinh, Đơn Hành Bàn gọi là “Tịch Chí Qủa Kinh) đều có tư liệu tư tưởng của 6 phái. Trong Ngũ Bộ của nam phương cũng có ghi lại, nhưng 2 miền Nam Bắc ghi lại không cùng nhất trí trong 6 phái triết học.
Thứ Nhất: Đại biểu cho tư tưởng duy vật có người đại biểu là A Kỳ Đa (Ajita, Kesa, Kambala) tức là tiền thân của phái thuận thế sau này. Bọn họ cho rằng Thủy, Địa, Hoả, Phong là bốn đại nguyên tố là trường tồn độc lập. Con người và thế giới do bốn đại hộp thành phủ nhận linh hồn. Con người sau khi chết trở về tứ đại, mục đích sự sống của con người tức là cầu được sự thỏa mãn và khoái lạc. Loại học thuyết này chuyên phản khán việc nắm quyền chuyện tế tự của Bà La Môn đại biểu cho tiếng nói của giai cấp thứ tư.
Thứ Hai: Sanjãyavela tthiputta (Tán Nhược Di) một loại học phái với trực quán chũ nghĩa. Đối với các vấn đề điều không nói quyết định, như là đối với có hay không có kiếp sau. Có hay không có quả báo v.v… Bọn họ nhận định rằng nếu nói có tức là có, nói không tức là không. Cho nên mọi người dí họ như loại lươn trơn nhớt khó bắt. Những người phái này chủ trương đứng cho chắc chắn của tu định để cầu được trí huệ chân chánh. Đệ tử phật, Mục Kiền Liên, Sá lợi phất đều có theo học với họ. Học phái này cũng có hàm ý phản đối chủ trương thế giới do phạm ngã chuyển hoá của Bà la môn. Đến thời đại So Nghĩa Kinh, Bà la môn vẫn thừa nhận thuyết nghiệp báo luân hồi. (Sanjãya vela tthiputta) đối phó với việc này áp dụng không khẳn định, không phủ nhận biểu lộ thái độ bất tính nhiệm.
Thứ Ba: Makkhali Gosãla (Mac Ca Ly) là người Định Mệnh Luận, chủ trương không có nghiệp báo, không thân do cha mẹ sanh, tất cả (nhất thiết) tu hành đều là không, là vô dụng. Chỉ cần qua 8 trăm 4 mươi ngàn đại kiếp, đến chừng ấy không cần biết là trí hay ngu, đều được giải thoát. Như là khi chọi đi một trái cầu bằng chỉ, khi chỉ hết thì trái cầu hết (lăn) và nhận rằng người do các loại nguyên tố cấu tạo thành. Và cũng hàm ý một số trình độ của tư tưởng duy vật và tự cho cái thuyết ấy là chánh mạng sinh hoạt (sống). Tất cả mọi người và phật giáo đều cho là “Tà Mệnh Ngoại Đạo”.
Thứ tư: Purana Kassapa (Bất Lan Ca Diệp) cũng tương tư như học thuyết của thứ ba (Makkhali-Gosãla). Cũng phủ nhận thiện ác nghiệp báo và Bà la môn giáo, chủ trương phóng dục là người hoài nghi luân lý luận. Họ xuất thân nô lệ.
Thứ Năm: Pakudha-kaccayana (Baphùđà) cũng phủ nhận hành vi của con người có thể phát sanh ra những ảnh hưởng gì. Cho thân người là bảy thứ nguyên tố cấu tạo thành. Bảy thứ nguyên tố rời ra thì là chết, nguyên tố vĩnh viễn tồn tại, cũng có tư tưởng duy vật. Trên đó 3 nhà do có học thuyết tương tự, cho nên trong một số tư liệu thường bị lầm lạc, đều bị liệt vào (tự sưng là phái chánh mệnh). Nhà phật cho là (Tà Mệnh Ngoại Đạo). Bọn họ là người xuất thân nô lệ, học thuyết của họ đại diện cho lợi ích của tầng lớp thứ tư.
Thứ Sáu: Niganthanàta-Putta (Ni Kiền Tử). Sau này phát triển ra Sina giáo. Trước họ đã có hiệp chủ, chủ trương Thất Cú Nghĩa. Lúc khởi thủy chia thế giới làm 2 loại. Hữu sinh mệnh và vô sinh mệnh. Sinh mệnh không giải thoát được là do nghiệp lậu, trói buột nhân thử. Cho nên cần Sá Diệt giải thoát để tiêu diệt nghiệp. Họ cho là nghiệp báo qúa nặng, muốn cho nghiệp báo tăng nhanh đến kết thúc thì cần khổ hạnh. Cho nên chủ trương khổ hạnh với loại tư tưởng này, trên thực tế là đã chi viện giúp cho thuyết nghiệp báo của Bà la môn giáo. Nigantha NàTa-Putta xuất thân Sác Đế Lợi. Mẹ là con của Quốc Vương, em gái họ là Vương Phi. Học thuyết cũng đại biểu cho lợi ích của giai cấp thống trị. Phái này cùng với học thuyết của Thích ca đối lập nhau, hai bên từng có sự xung đột. Tuy cũng họ Bà la môn. Nhưng trên phương diện giải thoát, cũng không giống như Bà la môn giáo.
Nguồn gốc quốc gia và gia tộc tính của Thích ca không được tường tận. Có người cho rằng không phải là giống Nhã An Lợi, mà là giống người Mông Cổ ngụ tại ngày nay là Ni Ba Nhĩ (Nepal) phía nam. Và Đông Bắc Bộ sông La Bá Đề (Rapti) giao giới với Ấn Độ. Từ Hy Mã Lạp Sơn trở xuống, rộng 12 lý ngang, 16 lý diện tích, 3 triệu 2 trăm ngàn mét vuông. Tương truyền có mười thành nhỏ. Lớn nhất có tên là Ca Tỳ La Vệ. Do đó gọi tên quốc gia này là Ca Tỳ La Vệ, trong truyền thuyết Ca Tỳ La Vệ. Không liệt vào 16 nước lớn, có thể lúc đó không thể tự độc lập, và là thuộc quốc của Kiều Tác La. Thành này còn di tích hiện tại ở Ni Bá Nhĩ là Tilourakot. Huyền Trang từng đến đất này, căn cứ theo Tây Vực Ký. Phế Vực của thành vẫn còn v.v…, toàn quốc có tám vạn (8000) hộ, 50 vạn người (50000) chánh thể cộng hòa. Đương thời trong tình trạng mạnh hiếp yếu, bản quốc Thích ca đang bị Kiều Tác La uy hiếp. Cho nên do nguyên nhân đó Thích Ca Mâu Ni xuất thế thì đối với quốc gia có phải mang một trách nhiệm là làm sao thoát ra vòng nước mạnh xâm lấn. Vua cha Tịnh Phạm Vương đương nhiên hy vọng con mình tiếp tục việc thống trị và ít nhất là duy trì được hiện trạng. Nhưng bản thân Thích ca không muốn làm một người dùng chính trị để thống trị, rời gia đình đi học tập theo các tư tưởng gia. Sau cùng còn tự mình cấu thành một thể hệ học thuyết và truyền bá rất rộng, phát triển thành một tôn giáo. Như thế đối với truyện ký của Thích ca càng ngày càng thần thoại hoá. Học giả đối với truyện của Phật (Phật truyện) có làm rất nhiều cuộc nghiên cứu và hiện tại vẫn còn người tiếp tục làm việc nghiên cứu và đại khái đã rõ rang hơn. Đối với tình trạng của Thích ca.
Truyền thuyết của Phật. Một phần bảo tồn trong “Kinh” và đại bộ phận được bảo tồn trong “Luật”. “Luật” có nhiều bộ phái bất đồng về “Luật” do đó liên quan về truyền thuyết của Phật của bất đồng. Đại Chúng Bộ đem Phật truyện phân ra làm “Đại Sự”. Pháp Tạng Bộ thì gọi là “Bổn Hạnh Kinh” và “Luật” thì gọi là “Tứ Phân Luật” là Nguyên Thủy của trực tiếp chỉ đạo của Hán Thích Phật Luật. Trong bản dịch chử Hán Phật điển còn có một bộ hoàn chỉnh phật truyện “Phật Bản Hạnh Tập Kinh” 60 quyển đời Túy dịch đem năm bộ bất đồng “Phật Truyện” tập trung làm một. Phật truyện của các phái “Luật” đều theo gia thế của phật. Phật xuất gia đến thành đạo, sau 6 năm và trở về nhà là hết. Về sau tất cả các hoạt động đều không được ghi tải lại. (“Phật Bổn Hành” tập kinh cũng như vậy) mã minh viết “Phật Sở Hành Tán” cũng thám trích nhặt từ các loại truyền thuyết và viết đến phật chết mới chấm dứt. Mã minh trong một tác phẩm khác là “Đại Trang Nghiêm Luận Kinh” trong Qui Kính Tụng. Qui Kính không chỉ là một bộ phái mà trong đó bao gồm có Thuộc Tử?. Cho thấy là truyện thu nhặt rộng lớn của chúng thuyết mà thành. Sau khi thành đạo, Thích ca tổ chức một đoàn thể sáng chế ra nhiều chế độ. Trong đó có một chế độ gọi là “An Cư” từ trong các tư liệu hiện tồn tại. Sau khi thành đạo và trong 45 năm, mỗi địa điểm trong kỳ An Cư đều có ghi tải, đồng thời cũng là hợp lý.
Thứ Nhất: Phật thường trụ tại Vương Xá Thành
(thủ đô Ma Kiệt Đà)
Thứ Nhì: Có khoảng hai mươi mấy năm tại Xá Vệ Thành
(thủ đô Kiều Tác La) như thế căn cứ theo sự ghi lại, có thể biên ra một việc phật đại khái hành sự trong 45 năm. Như vậy chứng minh “Thích Ca Truyện Ký” đó là có tính chân thật. Những việc trọng yếu trong đời của Thích Ca Đại Chí như sau: Thích ca từ nhỏ có được sự giáo dục hoàn bị. Kết hôn, sanh con, 29 tuổi xuất gia, đến vùng Ma Kiệt Đà tâm sư phỏng đạo. Không sở đắc, khổ hạnh 6 năm cũng buôn bỏ. Sau cùng tự mình độc lập, tư khảo, và hoàn thành cho chính mình một thể hệ học thuyết, đó là việc khi Thích Ca 35 tuổi. Từ đấy bắt đầu tuyên dương học thuyết của mình, trãi qua 45 năm những địa điểm tuyên đạo như là Ma Kiệt Đà, Kiều Tác La, Bạc Sa? trung tâm của ba nước ấy. Phía đông đến nước Đảm Ba, Tây đến Ma Thâu La phạm vi tương đối rộng lớn.
Tại sao Thích Ca xuất gia? Học thuyết của ông ta phản ảnh gì nội dung của xã hội?
Đương thời sự tự do tư tưởng ở Ấn Độ rất phát đạt, không ít những tư tưởng gia xuất thân từ Sát Đế Lợi. Bà La Môn có rất nhiều vấn đề không hiểu giải còn phải thỉnh giáo với Sát Đế Lợi. Và như thuyết “Luân Hồi” là do vị Vương của Sát Đế Lợi là “Bác Bạt A Na”? sáng lập. Tế Ngôn Tín của Bà La Môn cũng do từ ông ta thuyết , và phát triển đến lý luận “Nghiệp Lực” bị xưng làm “ Bí Thuyết” để tôn phụng. Lúc bấy giờ cảnh ngộ của Thích Ca là nếu không thể đề cao được địa vị chính trị của nước nhà, thì cá nhân phải đành được quyền lãnh đạo trên học thuật và tư tưởng.
Truyền thuyết cho rằng sau khi Thích ca sanh ra, thì các nhà tướng số đoán rằng ông ta trong tương lai nếu không làm chuyển luân vương, tất thành nhà đaị tư tưởng. Phản ảnh đúng với đương thời của ông ta, đối diện với hiện thật là phải áp dụng lấy con đường là “nếu không cái này thì phải cái kia”. Ngoài nguyên nhân Thích Ca xuất gia cũng có những nguồn thuyết khác, như nói ông ta thấy người bệnh, người già, tử vong và sự thống khổ. Thấy tự do tự tại của sa môn mà dẫn đến khái niệm sự yếu thế, và còn có thuyết cho rằng ông ta nhìn thấy nông dân cuốt đất. Những côn trùng trong đất bị chim ăn , và người nông dân không mãy mai nghĩ đến sự cao quí của sinh mệnh. Cảnh tưởng ấy khiến ông ta có cảm nghĩ rất sâu sắc về vô thường và bất hạnh v.v… có phải chăng, ông ta cũng thấy được sự thống khổ của người nông dân trồng ruộng, có một số ghi tải ở trung quốc. Khi ở trong hoàng cung Thích Ca không cảm thấy đến phiền não, khi ra khỏi hoàng cung đụng chạm với tất cả sự việc (hiện tượng) xã hội, khiến ông ta nãy sanh ra khái niệm “thế giới là khổ” sự ghi tãi này tuy không được thiết thực và minh bạch lắm. Nhưng nói nông vụ là khổ, là có liên quan đến học thuyết của ông ta, theo ghi tãi ủng hộ học thuyết của Thích Ca có vị vua Ma Kiệt Đà rất kính phục ông ta và còn cho một nơi để làm nơi tuyên truyền là (Trúc Viên Tịnh Xá) và sau này lại được dòng tộc ủng hộ. Về sau nữa được vua nước Kiều Tác La Ba Tư Nặc (Thắng Quân) ủng hộ, ngoài ra các đại phú thương như Tu Đạt Da, Cấp cô độc và một số người đều là những thí chủ đắc lực của Thích Ca căn cứ truyền thuyết. Giảng đường Đông Viên Lộc Tử Mẫu là do một cô dâu mới giàu có bán những tư trang (của hồi môn) qúy để cúng dường dựng nên. Sau này Thích Ca có đi đến Phúc Xa Ly, nơi đó nguyên vùng phạm vi thế lực của đạo Sina. Sự hoạt động rất là khó khan, nhưng Thích Ca cũng đương nhiên được Ngai Ma La Vệ hiến cho một tịnh xá (Kinh Duy Ma) có đề cập đến tịnh xá này. Về thân phận của Ngai Ma La Vệ thì có thuyết cho rằng là một kỹ nữ, nhưng bất luận thế nào, tiền tài đều từ các giai cấp phú hào, trong các đệ tử phật, khởi thủy với năm vị tỳ khưu, kế đến là thương nhân Da Xá? Da Xá một lần dẫn lại 60 mươi vị đệ tử. Xé từ những người ủng hộ phật đà, đều là Sát Đế Lợi, Đại Phú Hào học thuyết của Thích Ca là đại biểu cho lợi ích giai cấp là đièu khỏi nói mà rõ rồi.