BỘ PHÁI PHẬT HỌC (370-150 AC)
TIẾT THỨ NHẤT
- Trải qua sự phái phân phái của phật học
- Phật giáo phân phái và quan hệ của học thuyết
- Thời đại bối cảnh
- Lần thứ nhất phân phái
- Thượng tọa và đại chúng
- Phục saly 700 kết tập và đại kết tập
- Luân lưu thay đổi của Ma Chiếc Xà Vương Triều
- Một độ xâm nhập của A lịch Sơn Đại Vương
- Kiến lập của Vương Triều Khổng Tước
- A Dục Vương lợi dụng phật giáo
- Trong lần tái phân phái, sư tương tranh của Hóa Địa và Độc Tử
- Bổ Đặc ca la và vấn đề Vô Hữu
- Truyền giáo sư phái khiển
- Phát triển của phật giáo địa phương
- Phát sa mật Đa La Vương hưng thịnh
- Manh Nha của chế độ phong kiến xã hội
- Trong phân phái thứ 3 sự tương tranh của pháp tạng và đại chúng (Án Đạt Phái)
- Vấn đề tam thừa thắng liệt
- Đại thiên ngũ sự
- Tây Bắc Ấn Độ kiến lập của quý sương vương triều
- Biến hoá của xã hội
- Ca nhị sắc ca vương lợi dụng Phật giáo
- Hình thành kinh viện của triết học hữu bộ
- Thành thuyết của phân phái 18 bộ
- Chủng chủng dị truyền
- Theo học thuyết trên mà đại thể san định
Thích Ca tạ thế 100 năm sau, giáo đoàn phật giáo hiện rõ sự phân liệt (rạn nứt) việc này đại để từ trước công nguyên 370 năm đến Đại Thừa Phật Học bắt đầu lưu hành ở sau công nguyên 150 năm thì dứt, tổng cộng có khoảng 500 năm trong thời gian này học thuyết đều có thể gọi là Bộ Phái Phật Học. Ở trong thời gian 500 này, nội bộ Phật giáo phân hoá (chia rẽ) rất là dữ dội. Trước là phân liệt làm Thượng Tọa, Đại Thừa 2 bộ phái lớn, lần lần sự hình thành. Sau cùng còn gọi là 18 bộ, cái này đương nhiên chỉ là con số đại khái, thực tế thì so ra còn nhiều hơn thế nhiều. Những cái rạn nứt này cùng tổ chức của giáo đoàn bị phân chia phe phái có liên quan. Nguyên thủy Phật giáo phát triển đến phật diệt 100 năm sau, sắc thái tôn giáo rất đậm, cùng với Bà La Môn giáo lúc bấy giờ và Sina giáo thì tính chất không khác bao nhiêu. Tổ chức giáo đoàn là y cứ giới luật, giới luật bất đồng hay học thuyết có sanh ra khác biệt. Cho nên đưa đến phân liệt (rạn nứt), do giới luật bất đồng mà nói lập dị, do học thuyết bất đồng mà biến canh giới luật, hai loại tình huống đều có, và lại ảnh hưởng lẫn nhau. Đương nhiên, đây chỉ là nhân tố trong nội bộ của phật giáo. Nguyên nhân chính thức đẩy đến rạn nứt, còn phải nên từ trong bối cảnh xã hội lúc ấy để tìm hiểu.
Lần thứ nhất phân chia giáo phái, lấy bối cảnh là sự cường thịnh của Ma Kiệt Đà. Ma Kiệt Đà trước sau thôn tỉnh Bạt Sĩ, Kiều Tát La và các nước. Thế lực ngày càng thạnh, và những kẻ thống trị Ma Kiệt Đà ủng hộ Phật giáo. Phật giáo cũng tùy theo thế ấy mà khuếch trương, nhưng bổn lai là địa bàn của Kỳ Na giáo là Phệ Xá Ly cũng thịnh hành Phật giáo. Phật giáo còn hướng về phía Tây của Ấn Độ là Ma Thâu La mà khuếch trương, như thế và do nơi Đông, Tây 2 vùng đất có phong tục tập quán bất đồng, cộng thêm những người lãnh đạo của 2 giáo đoàn (Thượng Tọa) đối với phương pháp lý giải phật thuyết thì đã có phân kỳ, thì lẽ tự nhiên lần lần đi xu hướng rạn nứt. Phật diệt trước sau 110 năm, Ma Kiệt Đà lúc ấy đang thời kỳ thai Tu Na Da Vương triều. Sau chót một đời Ca La Oả Nhỉ Ra (Tục gọi Hắc A Dục, là để phân biệt với vua A Dục sau này), lúc ấy các tỳ khưu ở Phệ Xá Ly đã đi ngược lại với giáo quy lúc ban đầu, đã xảy ra chuyện xin tiền của người. Căn cứ theo sự truyền nói thì lúc ấy Tây Phương (Ma Thâu La) có Da Cá Tỳ khưu đến đất ấy, đối với việc này thì càng phản đối, phát sinh ra tranh cãi. Da Cá trở về phản ảnh chuyện đó, và ước hẹn 2 cánh Đông Tây các trưởng lão phán quyết đến chuyện này. Muốn tiền là phạm giới. Lúc ấy cuộc tập hội có 700 người, vì là muốn đem nội dung của kinh luật đến sự nhận thức thống nhất và cũng dùng hội tụng làm phương thức, cử hành một lần kết tập. Lần kết tập này lấy sự tham gia của nhân số mà mệnh danh là “700 người kết tập, từ địa điểm kết tập mà gọi cũng có tên ‘Phục Ly Sá’ kết tập. Đối với lần quyết nghị này đa số người không đồng ý, chỉ là do nơi ở thiểu số làm quyết nghị là những thượng tọa có địa vị, mọi người cũng không thể làm thế nào khác, và đa số ý kiến phản đối chỉ còn cách là làm một lần kết tập khác. Cũng dùng biện pháp hội tụng đính chính kinh luật theo cách khác, cứ theo cho biết có hàng vạn người tham gia, cho nên lấy tên là “Đại Kết Tập”. Từ đấy Thượng Tọa và Đại Chúng rạn nứt công khai, ai theo cách này. Nhưng mà giữa 2 phái không phát sanh ra vấn đề ai là chánh thống.
“700 người kết tập” ra còn một “Đại Kết Tập” việc này là do Nam Phương truyền ra. Với cái truyền thuyết này thì tương đối có phần hợp lý và cũng phù hợp với tình huống lịch sử. Từ đây về sau Phật giáo đã rạn vỡ, nhưng mà, như Bắc Truyền “Dị Bộ Tông Luân Luận” đã nói căn bản của sự rạn vỡ là lần kết tập khác xảy ra, và cũng cho rằng nguyên nhân là do Đại Thiên thuyết ngũ sự dẫn đến, cùng đem A Dục Vương liên hệ vào nữa. Thuyết ấy gần như phân chia ly cách và có rõ ràng sự sai trong niên đại. A Dục Vương là người sau khi Phật diệt khoảng 100 năm, sai chạy 100 năm, người Nhật tên Tỉnh Vũ trong khi nghiên cứu việc này, thì lại theo truyền thuyết của Phương Bắc, đo niên đại của A Dục Vương (Phật diệt 200 năm sau) không thể sửa được, chỉ còn bằng cách đem sự phật diệt kéo trở lại 100 năm.
Liên quan đến vấn đề tranh luận “700 kết tập, trong các phái luật ghi tải lại bất đồng. Thượng tọa bộ chư luật, thì bắt đầu sự xin tiền, ngoài trừ cuộc tranh cãi lớn cho việc này. Còn 9 chuyện lặc vặc cũng bị cho là phi pháp (như ăn còn thể chừa lại v.v.). Kết quả của kết tập tức có văn tự rõ ràng quy định cái “Thập phi pháp sự” chư luật của đại chúng bộ (chỉ có tư liệu Hán Văn) ghi tải thì cũng cùng bên trên có khác biệt nhìn nhận rằng nội dung kết tập. Không phải thập phi pháp mà lại là ngũ tịnh pháp (tịnh là không phải khẳng định những việc có thể làm trên tinh thần thì hoàn toàn bất nhất. Đặc biệt là khẳng định có thể tiếp thu số bố thí bằng kim ngân, tiền tài (việc này có thể thấy trong “Ma A Tăng luật do (Pháp Hiển đem về) với cái quy định này, thì cũng có quan hệ đến điều kiện xã hội lúc bấy giờ. Lúc ấy Phục Sá Ly là thương nghiệp phát đạt, rất nhiều hào thương. Sau này người đại biểu cho việc này là Duy Ma Cật là người giàu có. Đặc biệt Phật giáo được họ ủng hộ, cho nên thường thường có việc bố thí tiền bạc, không thể không thọ.
Hai đại bộ phái chia rẽ nhau, trên thực tế đối với lý giải Phật học có sự chia rẽ. Căn bản của sự chia rẽ ở đâu? Việc này phải đi ngược đến bản thân của Nguyên Thủy Phật giáo. Thời phật tại thế, ông đối với vấn đề có tính cách căn bản triết học , giữ thái độ tránh né như (4 loại, 14 vô ký v.v.) còn để lại rất nhiều mâu thuẫn chưa được giải quyết trong “Trung A Hàm, tiễn Dụ Kinh” Phật cùng Mạn Đồng Tỳ Khưu để ra vấn đề triết học, cử một thí dụ như là người bị một mũi tên độc bắn trúng, cần gấp nhất là do việc cấp cứu, mà không cần phải biết người bắn mũi tên, và nguyên nhân bắn mũi tên v.v. Vậy là đã nói đến vấn đề triết học, có thể không thảo luận trước. Nhưng mà đối với học thuyết nào cũng vậy. Phật học mà muốn thâm nhập sâu vào, tức không thể không tiếp xúc với vấn đề lý luận này của loại này. Như là thế giới có biên giới hay không biên giới? Hữu thường, vô thường, thân và mệnh là một hay khác v.v. Và trong ấy nhất là vấn đề quan hệ của thân mệnh. Cho nên trước là nên khẳng định có hay không của mệnh. Phật thì thừa nhận tác dụng của nghiệp. Cho nên ông không thể không đối với quá khứ của định mệnh cho là khẳng định. Trong lục sư một số phái không những thừa nhận quá khứ mệnh, cũng thừa nhận vị lai cũng là mệnh định nữa. Cho nên họ thực hành khổ hạnh để rút ngắn thời gian thọ khổ. Trên điểm này Thích Ca cao minh hơn Lục Sư, Thích Ca cho rằng con người trong một kiếp sống tức có thể đắc được giải thoát, bản thân Thích Ca 35 tuổi thành đạo, cố nhiên là đã đắc giải thoát. Đệ tử ông ta đắc quả A La Hán, cũng đã không bị thọ nghiệp tái chi phối, đoạt đến giải thoát rồi, nhưng mà những người chưa được giải thoát thì phải như thế nào? Tự nhiên là phải dính đến vấn đề hữu mệnh hay vô mệnh. Việc này không thể bỏ mặc đấy mà không lý tới.
“14 Vô Ký” vấn đề sau cùng nhất là con người, sau khi chết là còn hay là không còn? (thì ra vấn đề là ‘như lai diệt rồi thì còn hay là không còn?) đây là câu hỏi đã đề ra trong khi Phật còn tại thế. Sau khi Phật diệt thì lại càng đột xuất thêm nữa. Nguyên là, khi Phật lâm chung có nói với các đệ tử. Sau khi ta chết, các ngươi nương cậy vào cái gì? đó là phải nương cậy vào “Pháp”. Nương cậy nơi chính mình, nhưng sau khi đã hình thành tôn giáo, các phật đồ không những không thể hoàn toàn nương dựa vào “Pháp” và cũng không thể hoàn toàn tự nương tựa ở chính mình. Mà ngược lại phải nương cậy Phật, cho nên cơ bản của chia rẽ trên bề mặt mà thấy thì có liên quan đến sự khoan nghiêm của giới luật. Thực chất còn là đối với Phật thuyết sanh ra giải thích khác nhau, có thể là cùng 9 cái vấn đề căn bản phía trên. Đặc biệt vấn đề tương quan là sau khi như lai chết thì còn hay không, và cũng có thể nói, khi 2 bộ mới bắt đầu chia rẽ là do đối sự nhìn qua con người của Phật đà mà có chia rẽ.
Sau khi 2 bộ phái chia rẽ, lúc ấy Vương Triều Ma Kiệt Đà xảy ra biến loạn. Sau cùng đổi thành Vương Triều Nan Đà. Tình huống của Vương Triều Nan Đà không rõ ràng lắm, nhưng mà, tài phú tích lũy, có thể khẳng định lúc ấy thương nghiệp phần vinh, và thông thường còn gọi là “Vương Triều Nan Đà giàu có” là có thể chứng minh.
Lúc bây giờ, Mã Kỳ Đốn đã thống trị Hy Lạp. Hùng tài đại lược của A Lịch Sơn Đại đã dựng lên thành là một đại đế quốc hùng cường Syria, Ai Cập và chỗ giáp giới của 3 châu các địa phương đều thuần phục ông ta. Ông ta tiếp tục xâm lăng phía đông, diệt Ba Tư, cùng vượt qua Ưng Đô Khố Tư Sơn, đến Ca Hoa Thi, đi thẳng vào xâm lăng Ấn Độ. Việc này ở vào năm 327 BC.
Năm 326 ông ta đã đến Kiện Đà La, chiếm lãnh xoa Thi La Thành, là trung tâm văn hoá của thời ấy. Về sau tiếp tục đồng tiến, càng ngày càng bị các sắc dân của Ấn Độ kháng cự. Khí hậu thì làm cho lính Ai Cập không thể thích ứng khiến lòng quân sĩ rã rời, khiến bắt buộc A Lịch Sơn Đại phải rút về đến Ba Tư.
Vào năm 324, năm thứ nhì (323 BC) ông ta chết sự xâm nhập của A Lịch Sơn Đại, làm cho Ấn Độ bị chấn động mạnh, bị phá hoại nặng nề, chưa từng có trong tiền sử. Vào lúc ấy, có một người từng bị Nan Đà trục xuất ra khỏi nước tên là Nguyệt Hộ, (xuất thân đê tiện, mẹ là người nuôi Khổng Tước, Chim Công), cùng một người khác tên là Lan Na Ca của Bà La Môn. Về sau, Ma Kiệt Đà (hai người này đã từng ở nơi A Lịch Sơn Đại làm thuyết khách, đã từng dâng kế hoạch. Sau khi A Lịch Sơn Đại chết, nên về lại Ma Kiệt Đà) họ hiệu triệu dân chúng Ấn Độ làm cách mạng dân chủ, đuổi người Hy Lạp khôi phục quốc gia (ở Ấn Độ, A Lịch Sơn Đại có lập quan lại, tiếp tục cai trị), và cũng mượn tiếng là Vương Triều Nan Đà nhu nhược, mềm yếu. Nên lật đổ đi và lập ra Vương Triều Khổng Tước. Vương Triều Khổng Tước trên cơ sở phồn thịnh của Triều đại Nạn Đà mà hưng thịnh. Lại được cộng thêm một người tên Xà Na Ca bổ trợ (nhân vật này rất tài trí, giống như một nhân vật hạng nhất của Trung Quốc là Lưu Bá Ôn, hiện còn lưu lại Kiều Chí Lợi Da “Thức Lợi Luận”, căn cứ theo khảo chứng ông ta là tác giả. Kiêu Chí Lợi Da, Là họ của ông ta. (người Nhật tên là Trung Dã Nghĩa Chiêu đã đem sách ấy thích ra Nhật Ngữ. “Thật Lợi Luận” là giảng về thuật trị quốc an dân, kết cấu hoàn chỉnh nội dung từ tài chính quốc gia, quân sự, ngoại giao, biện pháp, thống trị, đến tổ chức đặc vụ v.v..không gì là không có cả) cho nên quốc gia được trị lý rất tốt, truyền đến đời thứ ba, tức là có tên A Dục Vương. A Dục Vương khuếch trương đất nước và có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của Phật giáo liên quan đến tài liệu về A Dục Vương cũng đại đa số được bảo tồn trong điển tích Phật giáo, Hán thích có “A Dục Vương Kinh”, “A Dục Vương Truyện” về phạm văn còn có “A Dục Vương bản sự”
Vua A Dục đã thống nhất địa khu phương bắc mà A Lịch Sơn Đại xâm chiếm, và mở rộng về phương nam, tại biên giới đông nam của nước Yết Lăng Ca, nước này bế quan tự thủ rất mạnh mẽ, năm thứ 9 sau khi vua A Dục Quán Đảnh (ông ta được quán đảnh vào năm 368 BC và ông ta chết vào năm 230 BC, tại vị 38 năm) phát binh tấn công Yết Lăng Ca, bị sự phản kháng chết chóc rất thảm nặng (chỉ Yết Lăng Ca, số tử vong lên 10 vạn người). Khiến ông ta cảm thấy chiến tranh rất tàn khốc, trong nội tâm có sự sám hối, cho nên đã nghĩ đến rất cần có sự lợi dụng tôn giáo để tiến hành thống trị, đặc biệt thấy trúng phật giáo, lý luận của phật giáo cũng là trung hoà. Và không cần phải tu khổ hạnh, cùng có thể hoà hoãn sự mâu thuẫn của giai cấp, đặc biệt có thể lợi dụng lý luận trung đạo của phật giáo đi đẩy mạnh thực hành pháp trị, tức ông ta cho là “Tâm Pháp” bản thân ông ta quy y phật giáo, trở thành cận sự nam, thọ ngũ giới. Cùng tiếp thị sự chỉ đạo của trưởng lão, Ưu Bà Đa. (Bắc truyền như thế, Nam truyền thì nói là Mục Liên Tử Đế tu không đến 2 năm, còn gia nhập tăng đoàn (trong pháp sớ của ông ta còn ghi lại có phải là thật xuất gia, bỏ việc chính trị thì chưa rõ được, nhưng đã tiết thực (giảm sự ăn uống), một ngày chỉ ăn hai chim công, một con dê. Kết quả về sau (rất giống Lương Vũ Đế của Trung Quốc) và cũng do sư phụ của ông ta (quốc sư) dẫn ông ta đi triều bái thánh địa Thích Ca, còn ở thánh địa lập Thạch trụ làm kỷ niệm, cùng phát triển tín ngưỡng quá khứ tứ Phật, di tích tứ Phật thì ở tại ‘Ca Tỳ La Vệ, ông ta đã chú minh là Thích Ca sanh ở đất này, di tích mà A Dục Vương Lưu lại đối với sự nghiên cứu về văn hóa Ấn Độ có giá trị rất lớn, thạch trụ được trồng rộng hai thước dư (thước tàu, một thước=3 tấc tây) cao 4-5 trượng, nặng mấy vạn cân, mài chế bóng láng, đầu trụ điêu khắc tinh mỹ, có thể nói lúc ấy tiêu chuẩn công nghệ cao. Ngoài ra, ông ta còn cất thêm tháp ở biên giới, còn có khắc “ma nhai” pháp sớ. Trong ấy cũng có quan hệ đến Phật giáo, như là khuyên Phật đồ nên niệm kinh, không nên tranh cãi, nên truyền giáo ra thêm v…v… Và cũng tuyên dương sự pháp trị của ông ta, tức là nhân chánh. Trong tài liệu ghi tải lại của Phật giáo, đáng chú ý là vào lúc ấy liên quan đến sự chiêu tập một lần kết tập. Nam truyền có ghi lại lần kết tập này, Bắc truyền thì không có. Căn cứ truyền thuyết, A Dục Vương lúc ấy ở tại Kê Viên Tự mỗi ngày cúng dường trên vạn người xuất gia, có rất nhiều người không phải Phật giáo đồ cũng lẫn lộn vào làm cho không được đoàn kết.
Bởi thế dẫn đến sự trùng tân, kết tập chỉnh lý Tam Tạng địa điểm là Hoa Thị Thành, có ngàn người tham gia lần kết tập này, truyền thuyết đã biên tập ra một bộ “luận sự” tức là nghị đề, đề cử ra các luận điểm bất đồng của các phái, mà san định là đúng sai, các ý kiến tránh phản diện có 500 điều, tổng kết có ngàn điều. Hiện nay còn 260 điều đều là phản diện là một phái Đế Tu không tán đồng, chúng ta nhận rằng quyển sách không nhất định là ở lúc ấy ra, bởi vì trong ấy liệt cử ra rất nhiều phái khác nhau, bất quá sau lần phân liệt trải qua 100 năm, tiếp tục vẫn có chia rẽ, là có thể khẳng định “luận sự” đệ nhất phẩm thì đề xuất ra vấn đề Bổ Đặc Ca La (Pudgala), Xét theo tiếng phạn. Bổ Túc là số, đặt ca là lá, la là thú, đó là sô thu thú, nghĩa là nhiều lần luân hồi qua các thú, là có hay không. Tùy theo thế tục giảng có thể nhìn nhận có, nhưng theo Phật giáo Thắng nghĩa thì có hay không có? lần thảo luận này rất là tượng tận, cũng còn có sử dụng bát diệu luận pháp, loại giống sau này nhân minh công khai chủ trương. Bố Đặc Ca La có Độc Tử Bộ, các phái khác tuy chưa công khai thừa nhận, nhưng là đã mặc hứa rồi. Kiên quyết phản đối là Mục Liên Tử Đế Tu, ông ta là chủ trì cuộc hội nghị lúc ấy, thuộc về Hóa Địa Bộ, lần tranh luận này, do Túc Tử Bộ và Hóa Địa Bộ đem vấn đề sự có và không của Bổ Đặc Ca La minh bạch thiết thực mà dở ra, có hay không ở lần hội nghị này, còn chờ nghiên cứu! nhưng mà, lần tranh luận này còn chờ nghiên cứu! nhưng mà tranh luận này khẳng định đã có qua.
Qua sự tranh luận lần này, có mấy mươi Thượng Tọa Bộ chia thành mấy tốp, bị khiển phái đi tứ phương tuyên dương Phật giáo. Phía đông đến Kim Địa, là Đông Bộ của Miến Điện, phía tây đến Tây Bắc Ấn và quốc ngoại của na thế giới (tức là các vùng Đại Hạ. Vùng đó là vùng A Lịch Sơn Đại thống trị, sau này phân ra làm mấy quốc gia, từ sự phát triển tiền tệ cổ, biết đến có tên đến 50 ngoài vị Quốc Vương, như Ni Lam Vương v.v…). Phía Nam đến Sư Tử Quốc (ngày nay là Srilanka) và từ đây Srilanka có Phật giáo, lần này phái người đi truyền kinh điển, số người thụ giáo, trong nam truyện “Thiện Kiến Luật” có ghi lại, nhưng mà trong Thạch Trụ khắc lại của A Dục Vương là chỉ có khiển phái năm sư tiết đến Duyên Hải ở phía đông của Địa Trung Hải Tuyên, truyền sự pháp trị, mà không có ghi lại là có phái Thượng Tọa xuất ngoại. Bởi vậy cho nên có người hoài nghi là có thể tin đó là sự thật nghiên cứu lại chuyện này là khả tín, là vì ở sự thuật lại bên trên điểm đặc biệt là trong bốn biển cảnh của Ấn Độ, đều có phát hiện Thạch Trụ điêu khắc của vua A Dục Khả vỉ chứng minh, do đây mà nhìn lại. Thời đại của A dục Vương thế lực Phật giáo khuếch trương rất lớn, các địa khu có các phong tục đặc thù, thì tùy đó mà xuất hiện các tổ chức khác nhau và lý luận thì càng đưa đến thành các phái khác biệt và chia rẽ.
“Thiện Kiến Luật” ghi lại địa điểm truyền giáo của A dục Vương, kinh điển ngày nay khảo cứu:
- Jih Tân Kiện Đa La nay là Srinagar Shahar “Xà Dục kinh” nay là “Tăng Nhất A Hàm Kinh quyển 31.6
- Ma Ti Sa Mạn Đà La, nay là Maisur “Thiên Sứ Kinh” nay là “Tăng Nhất A Hàm phẩm 32.4
- Bà nà Bà Tư, nay là Kannara Bắt Vô Thủy Tương Ưng Kinh, nay là Tạp A Hàm quyển 33
- ABaLam ĐaCa, nay là Gujarat “Hoả Tụ Dụ Kinh, nay là “Tăng Nhất A Hàm quyển 33.10
- Ma Ha Sớ Đà, nay là Maratha “Đại Ma La Đà Ca Diếp bản sanh, nay là Tã Ta Ka 11,544
- “Yêu Ma Thế Giới” này là Tây Bắc Ấn Độ “Calala Ma Kinh” nay là Pali “Tăng Nhất Bộ” quyển 2
- Tuyết Sơn biên nay là Hy Mã Lạp Sơn, Chuyển Pháp Luân Kinh, nay là “Tạp A Hàm” quyển 15.17
- Kim Địa nay là Miến Điện Phạm Võng Kinh nay là “Trường A Hàm quyển 14 “Phạm Động Kinh”
- Sư Tử nay là Srilanka Tiểu Tượng Tích Dụ Kinh, nay là “Trung A Hàm” 146 Kinh.
Sau khi Vua A Dục chết 40 năm, Dư Vương Triều Khổng Tước bị Phất Sa Mật Đà Vương tiêu diệt, kiến lập Vương Triều Cấn Ca, Vương Triều mới sùng bái Bà La Môn đại phá phật giáo, từ Kê Viên Tự bắt đầu qua, Ma Lâu La thẳng đến Ca Thấp Nila, căn cứ “Tỳ Bà Sa Luận” ghi lại. Phất Sa vừa đến biên cảnh của Ca Thấp Nila, thì tức khắc hủy diệt hơn 500 chùa Phật, khi tiến vào cảnh giới thì cần phải nói rồi. Sự việc được ghi lại này, có thể phóng đại hơn lên nhưng sự tổn hại. Chắc chắn là không nhỏ, từ tình trạng bảo tồn kinh luật mà thấy. Hán Dịch “Tăng Kỳ Luật” nguyên là của một bộ phái của đại chúng bộ, do nơi điển tích bị phá hoại. Về sau thì thành ra các phái cùng phụng tín Cựu Luật. Tây Tạng có bản phiên dịch bộ chót của luật tạng không hoàn toàn. Căn cứ theo nói, sau này Khi Phất Sa Vương phá hoại, Ma Thâu La đã không có còn luật này nữa. Tuy đã tìm kiếm trên nhiều phương diện, cũng không tìm được có thể thấy được sự phá hoại. Ở Lúc ấy vô cùng nghiêm trọng chuyện này xảy ra, sau khi phật diệt khoảng 400 Năm (Triều Đại Càn Ca kiến lập vào năm 185 BC). Tại sao Phất Sa Vương phản lại Phật? Đương thời vùng Tây Bắc của Ấn Độ còn có những quốc gia do người Hy Lạp thống trị như Ni Lan Vương, ông ta tính Phụng phật giáo và lợi dụng lấy công cụ tư tưởng xâm lăng Ấn Độ. Phất Sa hận thù người Hy Lạp và do đó cũng phản đối sự tín ngưỡng Phật giáo.
Cùng thời với lúc ấy, Phương Nam hưng khởi lên một Án Đạt La Tộc, thập phần cường thịnh hung hản, khu tự trị rộng lớn, có 30 thành có bộ binh 10 vạn, tượng binh một vạn. Thời A Dục Vương, trên mặt họ tỏ vẻ thần phục, trên thực tế là bán độc lập. Sau khi A Dục Vương chết, họ tức khắc bài thoát sự trói buộc của Vương Triều Khổng Tước. Ở tại Phương Nam phát triển đại sự, vào lúc nào xã hội Ấn Độ đi vào chế độ phong kiến, rất nhiều truyền thuyết dị biệt. Một số cho rằng là ở vào lúc Vương Triều Cấp Đa, nhưng chế độ phong kiến manh nha căn cứ theo nghiên cứu, là tại lúc Án Đạt La Vương Triều, bởi họ quản trị khu vực rộng lớn, thực hành phân chia. Phân phong Bá Thổ, ngoài ra Nam Ấn ở đông gần biển, sự mậu dịch với hải ngoại tiện lợi. Cho nên thương nghiệp phát đạt, ảnh hưởng đến tất cả, đẩy đến nông dân, đi đến phân hóa, cộng thêm sự sống đắt đỏ, địa vị nông dân ngày càng thấp. Từ đẳng cấp thứ ba lọt xuống đẳng cấp thứ tư, tương đương với nông nô (căn cứ theo pháp điển, nông dân thuộc cấp thứ ba. Huyền Trang trong “Tây Vực Ký” đã ghi lại rõ ràng, nông dân là tầng lớp thứ 4. Những việc này là Trưng Tập của chế độ phong kiến. Án Đạt La đúng ra cũng phụng tính Bà La Môn đời vua A Dục, cũng đã phái Phật đồ đến đây truyền giáo. Trong ấy có một người gọi là Đại Thiên, đem theo “Thiên Sứ Kinh” đến đông bộ của Ma Thi Bà Mạn Đà La. Một người khác là Đại Đàm Vô Đức, đem theo “Đại Na La Đà Ca Diếp, Bản Sanh Kinh” kinh này không có bản Hán dịch đến Tây bộ Ma Ha Thích Đà. Kinh hai người mang theo nội dung đều nói nhân quả, luân hồi, là công cụ thích hợp với vùng mới khai khẩn để tuyên dương Phật Giáo. Lần này, hai người truyền pháp dẫn đến lần phân phái (chia rẽ), thứ ba sự tranh nhau của Pháp Tạng và Án Đạt Phái.
Sự tình xảy ra như thế này. Sau khi Đại Thiên đến Án Đạt La Thành, lập bộ Chế Đa (chế đa cũng dịch là Chi Đề) vật kỷ niệm có hình dáng giống như Tháp, có xá lợi thì gọi là Tháp, không xá lợi gọi là Chế Đa. Tại sao bộ phái này lấy tên là Chế Đa? Truyền thuyết bất nhất, có thuyết cho rằng tại nơi đó trên núi có nhiều Chế Đa, tên gọi núi Chế Đa, có thuyết cho rằng, ông ta đề xướng sự sùng bái Chế Đa. Thấy ra thì bọn họ lấy sự sùng bái Chế Đa làm trung tâm. Cho rằng sùng bái Chế Đa có công đức, nhưng mà, có phải sùng bái Chế Đa có quan hệ với La Hán cũng có công đức? đối với việc này Pháp Tạng và Án Đạt có cách nhìn không nhất trí.
Án Đạt Phái cho rằng A La Hán không như Phật có 5 Đại khuyết điểm: 1) Bất tịnh 2) Bất nhiễm vô tri 3) Xứ phi Xứ nghi 4) Nhưng họ Xử nhân bất đắc tự tri 5) Đạo nhân Thịnh Khởi. Cách nhìn của Pháp Tạng là, A La Hán và Phật xê xích không mấy, cũng là vô lậu. Án Đạt phái chia rẽ trước và chia làm 2 bộ: Đông Sơn bộ, Tây Sơn bộ. Về sau lại chia rẽ ra thêm làm Vương Sơn Bộ, Nghĩa Thành Bộ. Tổng cộng có 4 bộ Đại Hàm Vô Đức của Pháp Tạng và Đại Thiên của Chế Đa phái tranh nhau, thì cũng tiếng là sự tranh của Thượng Tọa bộ và Đại Chúng bộ.
Đại thiên tại làm sao cũng là Đại Chúng Bộ? Căn cứ theo lúc ấy, phái ra đi truyền giáo các đại đức đều là hệ chính thống của Thượng Tọa bộ. Đại thiên cũng không ngoại lẽ ấy. Ở đây chỉ Đại Chúng, đang lúc trong lần tranh luận này lại xuất hiện ra phái đa số và phát thiểu số. Án Đạt thuộc về phái đa số, do đó mà Đại Thiên lại thành bộ Đại Chúng. Như lần thứ nhì phân liệt giữa Hóa Địa và Thuộc Độc Tử. Độc Tử là đa số thì đã bị gọi là Đại Chúng bộ. Như vậy, bọn họ Đại Chúng bộ cùng Thượng Tọa bộ đối lập trong lần thứ nhất, sự việc không giống nhau lần chia rẽ này. Có thể là vây quanh sự chuyển khai tranh luận về Ngũ Sự. Bởi vì trong “Luận Sự”, đệ nhất phẩm, đầu tiên là đề ra vấn đề của “Bổ Đặc Ca La” là có hay không. Tiếp đến phẩm thứ nhì đề ra là “Ngũ Sự” của Đại Thiên đó là chứng cứ.
Thế lực của “Án Đạt La” Vương Triều ngày càng mạnh diệt đi Vương Triều “Khang Phộc” và di chuyển vào Trung Ấn. Mưu Đồ thống nhất toàn Ấn Độ, đi theo sức mạnh bành trướng của Vương Triều này, các thuyết bất đồng của các phái Phật giáo cũng cùng theo đó mà truyền vào phương Bắc. Chủ yếu lại tại vùng “Ma Thấu La”, như là đối với sự sùng bái “Chế Đa” sự tranh luận “Ngũ Sự” của “Đại Thiên” đều lưu hành ở đây. Pháp Hiển,Huyền Trang hai người trước và sau đi Ấn Độ, đều có tiếp xúc với những tình huống này. “Dị Bộ Tông Luân Luận” là sách của bộ phái Hữu Bộ, nhận định rằng lần đầu tiên phân liệt là có quan hệ đến “Đại Thiên Ngũ Sự” thuyết tưởng đại khái cũng từ các tình huống này.
Trong lúc Án Đạt La Vương Triều tiếp tục công việc bành trướng. Tây Bắc Bộ của Ấn Độ xảy ra sự ngoại xâm từ Ngoại Tộc Nguyên là ở tỉnh Cam Túc Trung Quốc, giữa Đôn Hoàn, Chyi Lian Có giống người Nguyệt Thị, ở thế kỷ thứ 2 BC, bị Hung nô đánh bại, cả thủ lãnh cũng bị sát hại. Người Nguyệt thị sống du mục, bị bứt phải di cư đến Tân Cương, và đánh đuổi thổ dân đang ở đấy là Sái Tộc. Sái Tộc bị bức phải trước tiên là đi về hướng tây, nhưng không thông được. Bèn chuyển hướng về hướng Nam, đi vào cánh tây Bắc Ấn Độ. Tộc Nguyệt Thị chiếm lãnh vùng đất Đại Hạ Khác Tạp Mi Nhỉ, chia vùng đất ấy làm năm khu, mỗi khu phong một ôn Hầu Diệp Hộ tương với chức tướng quân. Cho đến lúc thế kỷ thứ nhất BC, có một vị gọi là Quý Sương của Ôn Hầu Thống Nhất Đại Hạ vùng đất ấy dựng lên Vương Triều Quý Sương, tiếp tục chiếm Lãnh Cao phủ của hướng Tây Nam. Hướng Đông Nam của Jih-Bin và cả nguyện Kiện Đà La, như vậy Tây Bắc ấn hoàn toàn dưới sự khống chế của Quý Sương. Tây Bắc Ấn, sau khi A Lịch Sơn đại xâm lấn chịu ảnh hưởng rất sâu đậm với Hy Lạp. Mặc dầu trong thời đại của A Dục Vương cũng không thể sửa đổi được tình trạng này. Cho nên nơi đây trở thành một vùng hỗn hợp giữa văn hóa Hy Lạp và văn hóa Ấn Độ, cộng thêm nơi này là con đường trọng yếu của thương nghiệp. Triều Đại Quý Sương có tài lực rất hùng hậu, sự trao đổi mậu dịch, thường dùng tiền vàng. Cho nên có người cho rằng ở lúc này, là lúc mạnh nhất của chế độ phong kiến.
Đời thứ ba của Quý Sương Triều là Ca Ni Ca Vương (Hán dịch tên của vua trước có hai chữ Chân Đàn. Chân Đàn tức Chân Đà là một tên khác của Vụ Chân Nguyên là Nguyệt Thị tộc có một đại bộ phận di cư nên gọi là Đại Nguyệt Thị. Còn lại một tiểu bộ phận lưu lại là Vu Tuan, nên gọi Tiểu Nguyệt Thị. Ca Ni Sắc Ca Vương là thuộc bộ phận ở lại Vu Tyan, Tiểu Nguyệt Thị cùng với 2 triều đại trước của Quý Sương, không có cùng một hệ thống, người này có hùng tại đại lược học theo A Dục Vương lợi dụng phật giáo thực hiện dã tâm xâm lược của ông ta (ông ta đạp xâm nhập Ma Kiệt Đà, hiện nay ở Trung và Đông Ấn Độ đều có phát hiện ra tiền tệ của thời ông ta). Khi Ấn Độ không thể chống đỡ lại ông ta, bèn cùng ông ta cầu hòa, Ca Vương bắt đầu đòi ba ức tiền vàng, sau rốt đạt thành điều kiện là:
- Phật bát (bình bát của Phật)
- Biện tài tỳ khưu
- Kim tiền một ức (một ức tiền vàng)
Biện tài tỳ khưu là chỉ Mã Minh. Tại sao Ca Vương lại đòi Phật bát và Mã Minh? tức là muốn mượn Phật giáo làm công cụ, lợi dụng Mã Minh để hiệu triệu, sau này Ca Vương đóng đô ở Kiện Đà La, ở đây cất lên nhiều chùa lớn và tháp lớn, từ trong những di tích được khai quật, còn những hộp để đựng xá lợi, tượng Phật, trên đó còn có dấu khắc niên hiệu của Ca Vương, danh ký v.v… Đại Tháp đó có tên là “Tước Ly” danh xưng là Bách Trượng phù đồ, thân tháp cao 40 trượng, trên đỉnh có thêm tương luân công 30 trượng, tòa tháp cao 70 trượng, châu vi 300 trượng. Tống vân người Bắc Tông Trung Quốc đến Ấn Độ, đã thấy tháp này xem Lạc Dương Ca Lan Ký.
Khi Huyền Trang đi Ấn, cũng thấy tháp này (xem Tây Vực Ký), căn cứ theo truyền thuyết thì hình thức tháp của Trung Quốc là mô phỏng theo tháp này (chính thức tháp của Ấn Độ là hình thức bình bát úp). Ở thời Vương Triều Quý Sương. Ấn Độ bắt đầu có sự điêu khắc tượng phật, tượng Bồ Tát, theo quy định của Phật giáo là không điêu khắc tượng Phật. Chỉ cho dùng Phật hành sự làm tính tượng trưng cho kỷ niệm. Như khi phật còn và đi qua nơi nào thì chỉ khắc dấu chân, nơi nào thuyết pháp thì khắc một pháp luân hay là hình thức cây bồ đề v.v… Ở triều Quý Sương sự khắc tượng cũng có một số truyền thống nguyên là Kiện Đà La chịu ảnh hưởng mấy trăm người Hy Lạp, trình độ văn hóa khá cao. Từ lúc thời đại A Dục Vương Phật giáo truyền vào, từ từ cũng có người Hy Lạp tin phật, bọn họ nguyên là có tập quán sùng bái ngẫu tượng cảm giác không thể không có một tượng phật. Cho dù người Ấn không chấp nhận cho khắc tượng, bọn họ vẫn cứ khắc tượng. Đến thời đại Ca Vương phong hóa khắc tượng lại còn phát đạt, chế tác của bọn họ mang đậm phong cách Hy Lạp,bị sưng là nghệ thuật Kiện Đà La. Do vậy, từ từ ảnh hưởng đến tây vực ở Trung Quốc và truyền vào nội địa. Như điêu khắc trong thạch động Vân Cương, thì có màu sắc này. Ca Vương đặc biệt đề xướng thuyết nhất thuyết Hữu Bộ. Trong đại miếu Thạch Minh nói, Hưng kiến Đại Miếu là hiến cho nhất thiết Hữu Bộ, Hữu Bộ sau này đối với học thuyết làm công việc hệ thống hóa, có mang khí vị triết học của Kinh viện “Bà Sa” thành là kinh điển và chấp nhận không cho mọi người sửa đổi một chữ thời đại Ca Vương, không những xuất hiện một học giả như vậy là Mã Minh, và lại có thêm Chúng Hộ, Thế Hữu v…v… các đại gia đều bị cho thành là các nhân vật của thời kỳ. Chúng Hộ còn bị cho thành là thầy của Ca Vương Nguyệt chỉ ở trước Vương Triều Ca Vương Phật giáo đã từng tương đối lưu hành cũng thông qua tây vực truyền vào nội địa Trung Quốc. Truyền thuyết Hán Ai Đế (trước công nguyên 2 năm), Nguyệt chi sứ thần Y Tồn từng ở Trung Quốc khẩu thọ kinh phật. Lịch sử ghi lại, Minh Đế Vĩnh Bình nguyên niên (công nguyên năm 58) vùng Lạc Dương đã có phật giáo. Ca Vương đề xướng Phật giáo ủng hộ Hữu Bộ. Cho nên cực lực thúc đẩy khiến Phật giáo đối ngoại khuếch triển, cho nên nửa thế kỷ sau, của thế kỷ thứ 2 AC. Một số thích sư ở Tây Vực lục đục đến Trung Quốc bắt đầu việc phiên dịch kinh Phật ở Trung Quốc. Từ lúc đương thời dịch ra điển tích mà thấy không những có Tiểu Thừa mà lại còn có Đại Thừa. Thí dụ như Đại Thừa điển tích là “Chi Lâu Ca Sấm” là đến từ Nguyệt Thị.
Ca Vương đối lịch sử là một nhân vật đại quan trọng, ở vào thời đại ông ta đối với sự phát triển của nghệ thuật phật giáo và một số lịch sử. Ấn Độ xử, Tây Vực Sử, cùng Lịch sử của các phương diện giao tế với Tây Phương, đều có dấy lên tác dụng và thúc đẩy. Rất tiếc là liên quan đến niên đại tại vị của ông ta. Đến nay vẫn chưa có thiết thực luận, từ đầu thế kỷ 20 học giả Tây Phương đã làm nhiều cuộc khảo chứng sáu mươi mấy năm qua. Vẫn còn rất nhiều dị thuyết,có khoảng mười mấy loại dã thuyết bất đồng. Gần đây mọi người đã tương đối thông dụng với 2 cái niên đại. Một thuyết là giả định ông ta tức vị năm 128- 129 AC. Một thuyết là tức vị vào khoảng năm 144 AC. Coi lại những tư liệu có liên quan của Phật giáo thì thuyết năm 128, cũng trễ hơn một chút nhưng cũng khiếm khuyết những chứng cứ vẫn mạnh. Chúng ta hãy tạm dùng thuyết đó thiết định ông ta tại vị niên đại là 128- 150 AC.
Phật giáo phân chia phái biệt hình thành Tư trước ca Vương, con số lớn là 18 bộ. Hiện còn lại tư liệu sớm nhất là Thế Hữu “Di Bộ Tông Luân Luận”. Thế Hữu là nhân vật chủ yếu của Hữu Bộ (truyền thuyết cho là cùng thời với Ca Vương không thể tin được, có thể sớm hơn Ca Vương) ông ta đứng trên lập trường của Hữu Bộ tư thực lại thời gian quá trình. Nguyên nhân của sự phân phái chia rẽ, tự nhiên là không đủ công, chân thật thiết 18 bộ tức là do nơi đây. Về sau các bộ phái khác cũng nói là cũng 18 bộ, nhưng sự phân chia trước sau nguyên nhân, phái biệt, danh xưng v…v… thì nói không đồng nhất tư liệu còn có hiện nay. Hán Văn có 5 loại, Tạng Văn có 6 loại, Pali Văn có 1 loại, cộng chung 12 loại, tư liệu của Pali Văn xuất xứ từ “Đạo Sử” là tác phẩm của thế kỷ thứ 3. Tư liệu của Hán Văn còn trể hơn nữa là ở thế kỷ thứ 6, 7 muốn từ trong đó tìm ra một cái nhìn thống nhất, hiển nhiên có khốn khó. Tại sao bỉ thử có sai biệt lớn như vậy? Thấy ra có 2 nguyên nhân rõ ràng: Một là do mỗi phái muốn nâng cao địa vị của mình, cho nên nói là bổn phái sớm hơn các cái khác. Một nửa là do hạn chế của địa lý khu vực. Bắc Phương đối với Nam Truyền thì tài liệu mơ hồ. Nam đối với Bắc Truyền cũng Ái Muội. Cho nên chân tướng của sự phân bộ. Lúc bấy giờ, cũng còn phải có sự chờ đợi tiếp tục nghiên cứu. Bây giờ, chúng ta từ trên học thuyết để thấy ra tình trạng phân chia phái của lúc đương thời. Căn cứ “Di Bộ Tông Luận” “Thanh Biện” Luật Thiên” Luận Sự” v…v…Các trước tác đại thể đã làm ra một phân tách và thẩm định như: Trước nhất sự chia rẽ là Đại Chúng bộ và Thượng Tọa bộ, nội dung tranh chấp có rất nhiều kiểu khác nhau, nhưng ít nhất là đối với cách nhìn và giải thích lời Phật nói, thì trên căn bản có phân kỵ. Thượng Tọa bộ thì đối với Phật thuyết dùng thái độ “phân biệt thuyết” cho rằng đối với lời Phật nói và giải thích lời Phật nói, phải có phân biệt khán đãi, đối đãi. Đại chúng thì chủ trương là thái độ nhất thuyết, cho rằng đối với Phật nói thì phải khẳng định toàn bộ. Do cái sự sai biệt như Thượng Tọa bộ thì bị cho là bộ “phân biệt thuyết”, Đại Chúng bộ thì bị cho là “nhất thuyết bộ”.
Lần thứ nhì của sự chia rẽ bộ phái, khởi ra do sự tranh nhau của Độc Tử và Hóa Địa. Nội dung chủ yếu của sự tranh luận là vấn đề theo lý luận của Phật giáo là có hay không thừa nhận Bổ Đặc Ca La.
Sau này Hóa Địa phái đi rất nhiều đại đức đến các địa phương tuyên dương, mỗi đến một nơi, thì tự thành một phái. Trong ấy phân phái đi đến Tây Bắc Ấn Ca Hiển Di La, Kiện Đà La, thì thành lập bộ thiuyết nhất thiết hữu, tại trong Trung ấn phát triển đến Tây Ấn dần đến hình thành pháp Tạng Bộ. Một số truyền giáo đến Tuyết Sơn (một dãy Ni Bạc Nhĩ) thành lập Tuyết Sơn bộ. Căn cứ theo “Dị Bộ Tông Luân Luận” ghi lại thuyết nhất thiết Hữu bộ, và nguyên là Hóa Địa bộ cũng đối đầu với nhau. Kẻ trước lấy thái độ là “nhất thuyết” người sau chủ trương “phân biệt thuyết” Tuyết Sơn bộ và Đại Chúng bộ là trộn lẫn nhau. Hóa Địa bộ phận phát đi đến nam Ấn Chế Đa Sơn dần đến phát triển thành Tây Sơn Trụ Bộ, Bắc Sơn Trụ bộ tức là Án Đại phái: 2 bộ này về sau đã có tư tưởng Đại thừa, không vì Thinh Văn, Duyên Giác làm cứu cánh. Còn giáng thấp địa vị của La Hán, từ trên ngũ sự của Đại Thiên còn thấy được cái lối nhìn của họ đối với La Hán, 2 bộ cùng Pháp Tạng bộ là chĩa mũi nhọn đối lập nhau. Trung tâm sự tranh luận là, cúng dường “Chế Đa” thì có hay không có công đức. Như thế, thì đã tất nhiên đi đến đối tượng của sự cúng dường. Từ đây mà đi đến thảo luận về vấn đề địa vị thắng liệt của Phật và La Hán.
Về sau Đột Tử cũng chia ra làm 4 bộ: Chánh Lượng, Hiền Vi, Pháp Thượng, Mật Lâm Sơn, giữa trong tứ bộ cũng có đối nhau tranh luận. Căn cứ theo “Dị Bộ Tông Luân Luận”ghi lại, họ tranh là gì trên sự giải thích một “Tụng” có cái nhìn bất đồng. Trước tiên là Chánh Lượng cùng Hiền Vị đối lập, sau này Chánh Lượng trở thành đại biểu Độc Tử chủ trương của họ cũng là chủ trương của bổn tông của Độc Tử.
Tại bên Đại Chúng cũng có chia rẽ, Ji Yinn Bộ nghĩa là những sở thuyết điều là xuất thế. Cho nên còn gọi là “Thuyết Xuất Thế Bộ” Thuyết giả bộ thì không cho là như vậy, nhận rằng đối với Phật nói nên phân biệt, có số thuyết pháp là xuất thế, có số thì không phải.
Pháp Tạng bộ về sau truyền Tích Lan bị coi là một cái Chánh Tông, chứ không phải là từ Hóa Địa phân chia ra. Cho nên đối với tình huống phân chia giáo phái của Nam truyền, cùng với 11 cái thuyết khác có cái bất đồng. Đương nhiên trên cơ bản tinh thần vẫn nhất trí.
Những cái phái biệt, sau này càng nói càng nhiều. Nam Truyền có 24 bộ, trong đó có một số tên trùng hợp nhau, nếu tất cả điều liệt ra, thì có 42 cái từ tư liệu của Khảo Cổ coi lại. Tại các bia khắc đã phát hiện danh xưng của bộ phái được ghi lại cũng có 20 ngoài cái, căn bản của trong 18 bộ, trừ ra Ji Yinn và Thuyết Giả còn chưa phát hiện ra, tất cả các bộ đều có từ tư liệu đã ghi lại, cùng địa điểm và trung tâm của các bộ phái hoạt động cũng phù hợp. Cho nên ghi lại của tư liệu vẫn là còn có căn cứ khả tín.
Đến thế kỷ thứ 6 AC. Các bộ phái này quy lại làm bốn đại hệ thống:
- Thượng Tọa bộ (Bắc phương thì Hóa Địa, Pháp Tạng làm đại biểu, Nam truyền thì Đại Từ làm đại biểu, Đại Tự lại chia Vô Uý Sơn Kỳ Đa Lâm Trụ).
- Chánh lượng bộ (Độc Tử làm đại biểu)
- Đại Chúng Bộ
- Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ.
Nơi đây đã giảng thuật học thuyết các bộ, tức là đã tuân tự của bốn hệ thống lớn.
TIẾT THỨ NHÌ
Trọng Yếu Điểm Của Học Thuyết Thượng Tọa Hệ
Bắc Phương Thượng Tọa bộ và Nam Phương Thượng Tọa Bộ
- Cựu truyền của Tuyết Sơn bộ
- Tam tạng của các bộ
- Ngôn ngữ sử dụng
- Hiện còn tồn tại của hoàn toàn Luận Thư
- Xá Lợi Phất tùy đạm Và Nam Phương Lục Luận
- Căn bản chủ trương của các Thượng Tọa Hệ
- Phán định của thập luận
- Phân tích hiện tượng vũ trụ
- Nhị nguyên luận
- Sát Na thực tại
- Tâm tính luận
- Thực tiễn cùng thiền
- Thuyết minh quá trình của tâm lý
- Khuynh hướng của Hữu Ngã Luận
- Phát triển của Pháp không quán
- Quan hệ của hòa phân biệt luận giả
Nguyên Thượng Tọa bộ là ở phương Bắc, sau là do nguyên nhân Nhất Thiết Hữu bộ tại Bắc và Trung Ấn, chiếm hữu ưu thế tình huống của họ lần lần bị mơ hồ đi một số điều đem một hệ Hóa Địa và Pháp Tạng cho là đại biểu của Thượng Tọa bộ. Nam Phương Thượng Tọa bộ chủ yếu tại Srilanka, trước sau cũng có biến thiên. Sau này lại lấy một phái Đại Tự trụ làm đại biểu. Huyền Trang nghĩa Tịnh khi đi Ấn Độ, trong đất Ấn còn lưu hành Thượng Tọa bộ. Theo nghĩa Tịnh ghi lại thuyết nhất thiết Hữu bộ sau khi chia ra. Thượng Tọa bộ còn chia ra ba bộ, nhưng chưa để tên ra, có thể Tức là chỉ, Vô Úy Sơn trụ của srilanka, kỳ đà Lâm trụ, Đại Tự trụ, Thượng Tọa bộ của nhà Luật Thiên Truyền thì tức là hoàn toàn ba bộ của srilanka, có thể thấy trong lòng đất Ấn, Thượng Tọa bộ đã tuyệt tích lấy đã truyền ở Srilanka làm đại biểu
Hệ thống Thượng Tọa bộ trừ Hóa Địa, Pháp Tạng Sri Lanka ra, còn nói có Tuyết Sơn bộ sau. Sau khi thuyết nhất thiết Hữu bộ chia rẽ ra, Một vùng Ma Kiệt Đà là phạm vi thế lực của bọn họ. Khiến bức bách Thượng Tọa bộ hướng về Tuyết Sơn và chuyển dịch. Về sau, căn bản Thượng Tọa bộ tất chuyển làm Tuyết Sơn bộ. Từ Thiện Kiến Luận SriLanka truyện mà thấy. A Dục Vương phái Thượng Tọa bộ đi truyền giáo ở Tuyết Sơn, nhân số đông nhất, Do Mạt Thị Ma lãnh đạo năm người đi, truyền kinh điển là do Phật thuyết đệ nhất bộ kinh.
Chuyển Pháp Luân Kinh, cũng rất trọng yếu, có thể thấy lúc ấy là rất coi trọng địa Khu Tuyết Sơn, chuyện này là có ghi lại phương diện tư liệu khảo cổ. Tại Bắc Phương cũng có phát hiện xá lợi của Mạc Thi Ma, tại sơn kỳ đại Tháp (một trong tám vạn bốn ngàn Tháp mà A Dục Vương kiến lập) còn có khắc văn của Tuyết Sơn bộ đủ chứng minh là có việc này. Gần đây người nhật “Kim Thương Viên Chiếu” còn chứng minh Tuyết Sơn bộ có giới luật của tự họ, của Hán dịch là “Tỳ Ni Mẫu Kinh” nhưng mà, sau này Tuyết Sơn bộ chuyển hóa hỗn chung với Đa Văn bộ. Tài liệu Nam truyền tất sẽ đem nó quy nhập vào hệ thống của Đại Chúng bộ. “Dị Bộ Tông Luận” nói nó cùng thuyết của Đại Thiên Ngũ Sự có cùng tiếng nói, cũng không nhìn nhận nó là Thượng Tọa bộ mà chúng ta cho các phái học thuyết của Thượng Tọa bộ, cũng đem Tuyết Sơn bộ bao quát vào trong ấy. Y cứ sự nghiên cứu học thuyết các bộ phái, tức là Tam Tạng của các bộ phái, đương nhiên 18 bộ không thể tự có cho họ Kinh, Luật, Luận. Nhưng những trọng yếu của các bộ là có Huyền Trang khi về nước đã mang rất nhiều Tam Tạng của bộ phái liên quan đến hệ thống của Thượng Tọa bộ, cứ theo “Từ Ân Truyện” ghi lại, đã đem về Thượng Tọa Bộ Tam Tạng có 14 bộ Hóa Địa (Ni Sa Sái) Tam Tạng 22 bộ, Pháp Tạng (pháp mật) Tam Tạng 42 bộ, đây chỉ Tam Tạng của Thượng Tọa bộ, có thể cũng là của Tích Lan. Chỉ có 14 bộ, cũng không hoàn toàn (kinh hoặc giả thiếu không nhiều luận thì sợ không toàn, căn cứ Nghĩa Tịnh “Ký Qui Truyện” nói Thượng Tọa bộ tính ra 10 vạn tụng, ước hiệp với Trung Quốc 400 quyển).
Luật của các phái Thượng Tọa, của Hóa Địa bộ. Hán dịch làm “ngũ phân luật của Pháp Tạng bộ. Hán dịch làm “Tứ Phân Luật”, sở dĩ gọi là “Ngũ Phân” “Tứ Phân” là chỉ chia thiên của luật, trong luật cũng có nói đến lần kết tập thứ nhất, đề cập đến tổ chức Tam Tạng của bọn họ, là dùng ngũ phần pháp. (tuyết Sơn bộ, “Tỳ Ni Mẫu Kinh” ghi lại cũng sai chạy bao nhiêu). Đầu tiên, kinh của ngũ phần pháp tức Ngũ A Hàm: Trường Trung Tăng nhất, Tạp (tương ưng) Tạp Tạng. Trong đó Tăng Nhất A Hàm, là do một tăng đến mười một thì ngừng, đây là đặc điểm của bọn họ (Đại chúng cũng là mười một pháp. Hữu bộ thì chỉ tăng đến mười thì ngưng). Còn đối với tương ưng A Hàm mà nói, bọn họ cho rằng là quan hệ việc của Bát Chúng (tức quan hệ quyến thuộc của đệ tử, đây có thể chỉ nơi trong phần kệ tụng. Bởi vì giảng một số đạo lý là vì Pháp phân loại, vì nhân vật phân loại thì dùng kệ tụng). Tạp Tạng có nội dung so ra phiền hơn, từ phật bản sinh bắt đầu, giảng đến pháp cú, nghĩa phẩm, Ba La Viên đến tối hậu của Thánh Kệ. Cộng 12 loại, kế đến, luật của ngũ phần Pháp là:
- Giải thích của Tỳ Kheo giới bổn
- Giải thích của Tỳ Khưu Ni giới bổn
- Chư sự (như là thọ giới, an cư, các công việc để làm, còn được dịch là “Kiện Đô” hoặc là uẩn.
- Bản mẫu một loại thông luận liên quan tới giới
- Tăng nhất Tỳ Ni là đối với giới, bổ sung, và giải thích sắp xếp theo thứ tự tăng thêm và sửa đổi
Lại nữa, Luận của Phân phát là:
- Vấn, đối với lời Phật nói phân tách từ nhiều loại
- Phi vấn tức là không làm bất cứ gì để phân tách
- Nhiếp tính, chất bất đồng chư pháp bao hàm lẫn nhau gồm thành một loại
- Tương ưng, trong các chư pháp tuy có liên hệ với nhau, nhưng không bao hàm với nhau
- Phát thú, đối với lời Phật nói không chỉ tương nhiếp tương ưng mà là tương vọng làm nhân quả duyên khởi của nó tức can dự đến vấn đề kiến lập đến nhân quả.
Như trên đã thuật Tam Tạng của Thượng Tọa bộ bản dịch Hán văn còn bảo tồn, cũng đã có An Thế Cao đã dịch “Tăng Nhất A Hàm” phiến đoạn (từ mảnh, từ đoạn không liên tục) nên bị gọi là Tạp Kinh 44 Thiên” phụ chú ở phía sau của “Thất Xứ Tam Quán Kinh” nay phán đoán đó là Kinh Thượng Tọa bộ. Nó có thể cùng “Tăng Nhất A Hàm” của văn Pali, hoàn toàn đối chiếu.
Ngoài ra các lẻ tẻ lắt nhắt trong kinh, còn có thể là A Hàm bộ phận khác của Thượng Tọa bộ, nhưng đã chưa khám định ra, luật tức là “Tứ Phân Luật” cùng “Ngũ Phân Luật” và cùng “Tỳ Ni Mẫu Kinh” (kinh này luôn bị cho là luật pháp Tạng bộ, qua sự phán định của người Nhật và cho là luật của Tuyết Sơn bộ). Luận tất có “Xá Lợi Phất Tỳ Đàm” Như trên là tư liệu của Bắc truyền. Tư liệu Nam truyền Pali văn Tam tạng của Thượng Tọa bộ nguyên vẹn đầy đủ, trong bản dịch của Trung Quốc có ít vài bản kinh lẻ của Kinh Nam Phương là từ Srilanka truyền lại. Luật Tạng Văn không có. Hán Văn thì có “Thiện Kiến Luật Tỳ Bà Sa” Nam Phương luật thông thường gọi là “Thiện Kiến luật” “Tỳ Bà Sa” của họ là “Luận”. “Luận” bao hàm “Luật” bao hàm “Giới”.
Nơi đây càng dự đến một vấn đề, nguyên lai là các bộ phái đã sử dụng ngôn ngữ gì? Hiện nay còn tồn tại các bộ, như nói “Nhất thiết hữu bộ” là sử dụng Phạn Văn. Nam Phương Thượng Tọa bộ thì sử dụng Văn Pali. Vậy thì nguyên là “Hóa Địa” Thượng Tọa bộ của Bắc Phương và Pháp Tạng thì sử dụng ngôn ngữ gì? Trong tư liệu kĩ thuật có liên quan đến của phân bộ “Chân để đã dịch bộ “Chấp Dị Luận” tại phía sau sách có một chữ “Ký” bây giờ không còn, chỉ một ít dẫn kiến nơi “Tam Luận Huyền Nghĩa” Trong Dị Bộ Tông Luận” kỹ thuật, căn cứ theo Chân Đế đã giảng. Sở dĩ “Hóa Địa Bộ chia rẽ là do bộ chủ của nó, “Chính Địa” là Bà-La-Môn, đã là quốc sư, sau khi xuất gia thành A La Hán, Chính Địa dùng “Phệ Đà” ngữ của “Hảo ngữ” để trang nghiêm Kinh Phật. Khiến cho đi đến khác nghĩa, do đó mà phân chia bộ phái, do nơi đây mà thấy lại Thượng Tọa bộ nguyên là sử dụng ngôn ngữ có thể cũng có liên hệ cùng Cổ Phạn ngữ, mà loại Phạn ngữ này không nhất định thuần chánh, ở trong ấy là có tạp kèm theo một Phệ Đà ngữ. Trong Bố Đôn “Phật Giáo Sử” truyền thuyết là bốn đại hệ thống bộ phái đều dùng các ngôn ngữ không giống nhau, hệ Hữu Bộ sử dụng phạn ngữ (hiện nay còn lại một bộ tư liệu là phạn ngữ, chứng minh là đó không sai). Đại chúng bộ sử dụng “Tục Ngữ” tức là phương ngôn “Thổ ngữ, có người cho rằng là loại rất khiếm khuyết văn phạm của phạn ngữ. Thượng Tọa hệ, sử dụng Trung gian ngữ (là loại ngôn ngữ giữa phạn ngữ và tục ngữ). Với truyền thuyết này có số căn cứ, bởi vì Văn Pali, là có tính chất của loại ngôn ngữ này. Loại trung gian ngữ này khi truyền đến Phương Nam, thì bị người địa phương thần thánh hóa lấy đi làm một loại Thánh Kinh ngữ mà cố định xuống, không như với sự lưu hành của ngôn ngữ trong lòng đất Ấn Độ. Tùy theo thời thế thay đổi mà sanh biến hóa. Khi Phật tại thế, nguyên là không cho dùng phạn ngữ để tuyên truyền Phật giáo, mà cho phép đệ tử tự do lấy dụng ngôn ngữ địa phương quy định này được người sau tuân thủ. Hóa Địa bộ đột nhiên thay dùng Phệ Đà ngữ, là một sự biến đổi cách mạng, lại dính dáng đến nội dung sai biệt, thì tự nhiên dẫn đến phân bộ (phân chia bộ phái chia rẽ) cho nên nói phân bộ và ngôn ngữ cũng có quan hệ. Nhưng mà, theo tự liệu hiện còn tồn tại mà coi, chỉ còn có Phạm văn Pali văn hai loại, và còn chưa phát hiện các ngôn ngữ bất quy tắc khác. Trung Quốc phiên dịch ít điển tích Hóa Địa bộ, cùng với sự sử dụng ngôn ngữ đặc thù của họ, cũng có một ít quan hệ.
Chủ trương của các bộ phái, tất phản ảnh trong tại Tam Tạng của các phái, đặc biệt là “Luận Tạng”. Hệ thống của họ đã phản ảnh ra quan điểm học thuyết của họ, cho nên muốn nghiên cứu học phái của các bộ phái, nên đối với Luận Tạng của họ làm sự phân tích tường tận. “Luận” của Thượng Tọa Hệ, Hán dịch có một bộ hoàn chỉnh, cũng là một bộ duy nhất là “Xá Lợi Phất Tỳ Đàm” sách này là Diêu Thần Đại dịch ra, cộng 30 quyển, bản dịch cử “18 bộ luận” “Bộ chấp dị luận” đều cho là sách này của bộ Độc tử, cho nên nói Độc tử chia làm 4 bộ, tất là do sự giải thích sách này bất đồng dẫn đến (Chân Đế nắm lấy thuyết này). Cho nên, người sau đã là tín đồ họ không có sự nghiên cứu trên sự thật. Sách này là chủ trương của Độc Tử đều tương phản rất lớn. Như là đặc điểm chủ trương của Độc Tử là có Bổ Đặc Ca La, sách này thì không nói đến. Còn Độc Tử giảng lục đạo luân hồi (nhiều thêm một đạo A Tu La) bản sách này thì chỉ giảng năm đạo, hiển nhiên là bị người trước lầm lộn làm sai rồi.
Hán dịch “Xá Lợi Phất Tỳ Đàm” là từ hệ thống Hóa Địa Pháp Tạng truyền xuống, theo lý là Nam truyền cũng phải dùng bản Kỳ Đàm này mới đúng. Bởi vì Nam Truyền Thượng Tọa thực tế là hệ pháp tạng, tại gì sao Nam Truyền lại dùng thất luận? đối với sự việc này nên tiến hành phân tích. Nam truyền thất luận là: Pháp tụ, phân biệt, giới thuyết, nhân thi thiết, luận sự, song đối, phát thú, trong các luận trừ “Luận Sự” ra, còn lại 6 luận cùng cơ bản của “Xá Lợi Phất Tỳ” là một thứ. Truyền thuyết là “Luận Thư” ở lần kết tập thứ nhất đã có “Luận Sự” tất là lúc A Dục Vương lần thứ 3 kết tập biên soạn. Do vậy là về sau thêm vào, kỳ dư 6 luận tại tổ chức và trên nội dung cũng bất tương đồng. Nhiều năm trước học giả người Nhật là Thôi Vĩ, mộc thôn hai nhà đã làm qua việc nghiên cứu, cùng các Tỳ Đàm khác so sánh ra kết quả, đoạn định thất luận cùng “Xá Lợi Phất Tỳ Đàm” gần giống nhau, họ đã chú ý đến hình thức của “phân biệt” cùng “Nhân Thi Thiết” hai luận, như của “phân biệt” thì pháp và môn loại đều cùng “Xá Lợi Phất Tỳ Đàm” tương tự “Nhân Thi Thiết” là do quan điểm của thực tiễn mà đem các hạng, các thứ người cộng thêm phân loại “Xá Lợi Phất Tỳ Đàm” cũng có bộ phận này. Hiện người Nhật nghiên cứu chưa siêu xuất ra mực chuẩn này, chúng ta nghiên cứu không phải xuất phát là từ hình thức, mà là phải trên căn bản để tìm ra nguyên nhân của nó. “Tỳ Đàm” nguyên là giải thích lời của Phật nói, Phật cũng đã đối với chính mình nói cũng có giải thích, cho nên cũng có phật thuyết Tỳ Đàm. Trong đệ tử Phật có Ca Chiên Diên, Mục Kiền Liên, Xá Lợi Phất, ba nhà giải thích Phật thuyết lớn. Trong ba người gấp được Phật khen ngợi, nhận rằng họ rất lý giải ý Phật, đã kêu người nếu có vấn đề có thể hỏi họ (thỉnh giáo họ), trong Trung A Hàm “còn bảo tồn lại tài liệu của Xá Lợi Phất v.v. đã đại biểu Phật thuyết pháp. Tỳ Đàm của xá lợi phất là dùng ngũ phần pháp, ngũ phân là mỗi tự độc lập, mỗi phân đều có thể thành mấy bộ. “Xá Lợi Phất Từ Đàm” truyền đến Nam Phương thì tại sao có thể phát triển thành lục luận vậy? đây là có thể đại khái do sự ảnh hưởng từ “lục túc” ở sự tổ chức hình thức. Tỳ Đàm của nhất thiết Hữu Bộ, chúng ta phát hiện “lục luận” cùng “Xá Lợi Phất Tỳ Đàm” ở các phương diện đều có quan hệ. Trừ học giả người Nhật chỉ ra của hai luận, chúng ta thấy ra “Giới Thiết” cùng “Xá Lợi Phất Tỳ Đàm “là nhiếp” tương ưng, hai phân hoàn toàn tương tự “Song Đối” cũng là một loại của nhiếp. Ngoài ra “Phát Thú” giảng 24 duyên. “Xá Lợi Phất Tỳ Đàm” Xứ Sở” cũng giảng Thập Duyên. Không những nội dung giống, danh xưng cũng giống (“Xứ Sở” Huyền Trang ở trong “Pháp Trụ Ký” dịch là “Phát Thú”). Cho nên Nam Phương lục luận, tức là từ Xá Lợi Phất Tỳ Đàm phát triển mà thành Nam Phương lục luận. Xá Lợi Phất Tỳ Đàm Phát Thú, Xứ Sở, Pháp Tụ, Nhân Thi Thiết, Vô Vấn, Phân Biệt, Vấn, Giới Thuyết, Nhiếp Tương Ưng, Song Đối một loại của nhiếp.
Nghiên cứu chủ trường của các phái, ngoại trừ “Luận” của các phái ra, còn có thể từ sự ghi lại, điển tích của các bộ phận phái, hấp thụ tư liệu như “Dị Bộ Tông Luân Luận” “Luận Sự” v.v. đều là đứng trên lập trường, bất đồng của các bộ phái. Đề ra ở lúc ấy các đặc thù của học thuyết của các bộ phái.
Chủ trương của các phái rất nhiều không thể nắm bắt hết được. Nhưng ở đây có được một phương tiện, tức là lợi dụng “Thành Thực Luận”. Tác giả của “Thành Thực Luận là A Lê Bạt Na ông ta tạo luận là để phê bình các thuyết của các bộ phái. Bởi thế ông ta tạo luận là để phê bình các thuyết của các bộ váy Bởi thế, ông ta quy kết chủ trương căn bản của các phái Thành Thập Luận, làm đối tượng phê bình (coi thành thực luận quyển 2), Thập Luận (10 cái chủ đề) là:
- “Pháp” khách quan tồn tại là phải hay không phải thực tại? không chỉ giảng hiện tượng, còn giảng thời gian, tức là nói, hiện tại, thực tại, quá khứ, vị lai là có phải hay không thực tại? cái này gọi là “Nhị Thế Hưu Vô?
- “Nhất thiết Hữu vô”? tức là nhất thiết hiện tượng có phải hay là không đều có?
- “Trung Ấm” có hay không có cái thứ quá độ này?
- ‘Tiệm Đốn” vấn đề hiện quán, tại trên thực tiễn lãnh hội Tứ Đế gọi là Hiện Quán. Với loại hiện quán này là Tiệm Đắc hay là đúng Đốn Đắc?
- La Hán là còn thối hay là bất thối?
- “Tùy Miên” (Tập khí khiến người phiền não) cùng tâm tương ứng hay là bất tương ứng?
- “Tâm Tính” có phải hay không bản tịnh
- Chựa Thọ báo nghiệp thì có phải hay không phải vẫn tồn tại?
- Phật có phải hay không phải tăng số?
- Có hay không nhân ngã
Mười điều này bao quát chủ trương trọng yếu của các phái lúc đương thời, “Luận Sự” đệ nhất phẩm cũng lược cử vấn đề tương tự như thế, lấy thập luận làm tiêu chuẩn, có thể đem tư tưởng của Thượng Tọa Hệ xác định xuống, Thượng Tọa đới với mười vấn đề thì chủ trương là:
1) Phủ định như thế hữu thực thể
2) Cho rằng điều không phải là nhất thiết pháp đều có thật
3) Phủ định có Trung Ấm
4) Hiện Quán là đốn đắc
5) Chủ trương La Hán bất thối
6) Tùy Miên cùng tâm bất tướng ứng (Nam Phương có khi cũng nói khả tương ứng)
7) Chủ trương tâm tính bản tịnh (Nam Phương cho rằng tâm tính nhất định tịnh)
8) Phủ định chưa thọ nghiệp báo hữu thể
9) Thượng Tọa bộ các phái đối với Phật có phải hay không phải, ở trong tăng số, thì có cái nhìn không nhất trí, Hoá Địa thì đặc biệt chủ trương Phật ở trong Tăng số
10) Phủ định có nhơn ngã.
Một số lý luận của nhà phật là từ cảnh, Hành Quả ba phương diện mà tiến hành hiện thuật, cảnh tức là nhận thức của họ đối với thế giới Hành, Quả là một loại hoạt động thực tiễn của tôn giáo, cũng là cải tạo thế giới đối với họ. Dưới đây là sự phân tách của Thượng Tọa hệ đối với yếu điểm học thuyết đó ở ba phương diện.
Lý luận của cảnh, giai đoạn Nguyên Thủy Phật Học là đem trọng điểm để trên hiện tượng nhân sinh, lấy người làm trung tâm, mà người là ngũ uẩn hợp thành. Cho nên cũng quy kết đến phân tích đối với ngũ uẩn. Đến giai đoạn bộ phái Phật học, phạm vi của cảnh khuếch Trương đến một số phương diện hiện tượng vũ trụ, phân tích thì đi đến khuếch đại làm “Tam Khoa” (Ngũ Uẩn, Thập Nhị Sứ, Thập Bát Giới). Cách nhìn của “Xá Lợi Phất Tỳ Đàm” đối với Tam Khoa là đem “Sứ” (cách dịch cũ là “Nhập” để ở vị trí nhất (sách này ngũ phần pháp, phân đầu là vấn, có mười phẩm, thứ nhất tức là nhập phẩm). Thập Nhị “Sứ” chia làm nội ngoại hai loại. Nội Lực Sức tức là lục căn ngoại lục sứ tức là lục trần.
Đây là căn cứ theo nhận thức của con người để chia, cảm giác, ngủ quan,tư duy, ý căn, là có thể nhận thức, sắc, thanh, hương, vị, súc, pháp sứ, là sở nhận thức của đối tượng (trước năm cái là đối tượng, ngũ, cái sao là đối tượng Tư Duy). Thượng Tọa Hệ lấy “Sứ” làm trọng điểm để thuyết minh hiện tượng vũ trụ. Cái đặc thù ở đây là trên sự giải thích đối với “Pháp Sứ” căn cứ “Xá Lợi Phất Tỳ Đàm” ký tải “Pháp Sứ” có 52 loại đối với Nguyên Thủy Phật Giáo, ngũ uẩn, (Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức) thì trong ấy “Hành, Uẩn”, cộng thêm sự phân tách. Có một loại hành là cùng tâm tương ứng (đồng tâm cụ khởi, đồng nhất cảnh, đồng nhất duyên) gọi là
“Tương Ưng Hạnh” cũng tức là tâm sở. Tâm sở thuộc về tâm không thể độc lập, cùng tâm khởi lên mới phát sinh tác dụng. Còn một loại là cùng tâm bất tương ưng, gọi là “Bất Tương Ưng Hành. Như sanh, lão, tử v.v. phân vị khái niệm, là một đoạn, một đoạn mà cấu thành. Cùng tâm một đạo, nhưng cùng tâm bất tương ứng, Thượng Tọa hệ chỉ ra “Tương Ứng Hành có 28 loại. “Bất Tương Ứng Hành, có tám loại, ngoài ra còn có “Vô Biểu Sắc” biểu thức là biểu thị như ngôn ngữ, hành động v.v. có thể làm người khác cảm thọ được, là lấy vật chất làm cơ sở biểu thị ra sắc, nên gọi “Vô Biểu Sắc” là một loại hoạt động của tâm tư, nó cũng có thể lưu lại hình tích, và cũng có vật chất nữa, nhưng không thể thấy, rờ không được. Nhưng thông qua tỷ lượng khái niệm mà cảm tri nó được. Còn có thêm một loại là “Vô Vi” Có một số sự vật không đợi phải tác vi mà tồn tại, như trong kỹ Hà học, công lý không do ai sáng tác, nhưng nó tự nhiên tồn tại. Những loại này đều thuộc “Pháp Sứ” tổng thể mà nói “Pháp Sứ” có nội dung tương đối nhiều, cộng 52 loại. Thượng Tọa hệ phân tích hiện tượng vũ trụ như thế, cũng gần như tường tận y chiếu Thập Nhị sứ lại phân tích hiện tượng vũ trụ, tự như gấp phức tạp, những quy kết trở lại, không ngoài “Sắc” “Tâm” hai loại ở điểm này. Trong luận thư của Nam Phương Thượng Tọa bộ, biểu thị rất là minh hiển. Như bộ thứ nhất của “Thất Luận” “Pháp Tự Luận” tức vì “Tâm Phẩm” “Sắc Phẩm” lại để khái quát nhất thiết pháp. Như thế tính chất nhị nguyên luận của bọn họ là rất rõ ràng, trên triết học chân chánh nhị nguyên luận là không có, sau cùng tổng thể cũng có phần nghiêng nặng, Thượng Tọa bộ cũng như vậy. Sau cùng bọn họ chủ trương là Duy Tâm, từ căn duyên của xã hội, của giai cấp của bọn họ mà coi. Và tất nhiên chỉ có thể là Duy Tâm. “Tỳ Ni Mẫu Kinh” minh xác đề ra “Nhị Pháp Bất Khả Vi” một là Phật pháp, hai là Vương pháp. Đây là điểm đứng tối hậu của học thuyết của bọn họ.
Trên thực tế, Phật Pháp còn phục tùng Vương pháp. Sở vỉ nói nhị pháp bất khả vi, tức là Vương pháp bất khả vi, rõ ràng là bọn họ đứng bên giai cấp bóc lột, và phục vụ cho lợi ích của giai cấp bóc lột. Cho nên lý luận cũng không thể là duy vật chủ nghĩa, lại thêm từ bản thân học thuyết của bạn bọn họ mà coi, giảng sắc, giảng tâm, tựa hồ là nhị nguyên, đại để là bọn họ một bên nói sắc, tổng là không thể ly khai bên Tâm giảng “Pháp Sứ” cũng tức đều là để nói như sắc là sở kiến, Thinh là Sở Văn v.v. Cho nên mặc dù có “Pháp Sứ” nhưng tuyệt cũng không độc tồn tại, mà là tất phải cùng tâm liên kết với nhau. Lấy tâm làm tiền đề để tồn tại, ngoài ra họ còn nói “Chư Hành Vô Thường” đem vô thường nói đến trình độ của Sát Na, thì tính ra cũng đủ thấu triệt rồi. Cho nên người sau gọi Hóa Địa bộ “Sát Na Luận Giải” vấn đề là họ nói sát Na diệt không phải vì thời gian làm tiêu chuẩn, cũng là liên hệ Tâm để nói, bởi vậy Tâm là việc trong Sát Na, đối tượng bị tâm sở trị, ngoại giới mới là Sát Na diệt. Đây cũng tất nhiên sẽ phủ nhận thời gian thực tại khách quan vật chất tính. Chỉ có thể đi trên con đường Duy Tâm Luận. Thượng Tọa hệ căn cứ quan điểm này, Thuy luận trong hiện tượng tại một sát Na này là thực tại, quá khứ, vị lai đều không thực tại, bên trên tức là đặc điểm có quan hệ về học thuyết “Cảnh” của Thượng Tọa hệ.
Phương diện thực tiễn, cũng tức là phương diện Hành, Quả. Thượng Tọa hệ đem chủ thể của giải thoát quy về Tâm, đạt tới Tâm giải thoát, tức gọi là giải thoát rồi. Như vậy tức sẽ phải thảo luận đến vấn đề tính chất thực tại của tâm. Bởi vì nó quyết định xong, có thể hay không có thể giải thoát và như thế nào giải thoát. Đối với việc này Thượng Tọa hệ cũng có lý luận đặc thù của họ, tức “Tâm tính bản tỉnh, Khách Trần Sở Nhiễm” bọn họ cho rằng tự tính của Tâm nguyên là thanh tịnh. Thế thì tại làm sao lại còn phát sinh vấn đề giải thoát hay không giải thoát nữa? Đây là do duyên cớ Tâm bị phiền não, từ ngoài nhiễm ố, vấn đề liên quan của Tâm tính, bọn họ chia làm hai đoạn giảng, tâm tự tánh thanh tịnh, đây là đoạn thứ nhất, bị khách trần sở nhiễm đây là đoạn thứ hai (Khách trần tức phi chủ thể, là ngoài vào, và cũng Không rõ lai lịch, hốt nhiên như nó lại. Hai đoạn liên kết lại hiệp thành một cái mệnh đề, nơi đây đã trả lời hai câu hỏi: 1) Tâm Khả dĩ giải thoát. 2) phương pháp giải thoát là bỏ đi khách trần.
Tại đây Làm sao bỏ đi khách trần mà vẫn khởi đến là vấn đề liên quan đến việc này. Phiền não cùng tâm là loại quan hệ gì? Chúng nó tương ứng hay không có tương ứng? Thượng Tọa bộ cho rằng, phải làm cụ thể phân tích. Phiền não có hai phương diện, một là Tùy Miên, chỉ tập khí của phiền não, giống như con người trong trạng thái ngủ,nó là thế lực tiền tồn (tiền tàng tồn tại), là cùng tâm bất tương ưng. Một nửa là triền, chỉ phiền não thực tại hiện hành. Cái này cùng tâm tương ưng. Theo cái nhìn của Thượng Tọa hệ, bất luận cùng tâm tương ứng hay không tương ứng, ô nhiễm của phiền não đều không ảnh hưởng bản chất của tâm, mặc dù tâm cùng phiền não đồng thời đồng khởi, nãy nhiên là ly phiền não. Đây cũng là đặt điểm của bọn họ là không giống các học thuyết khác.
Thực tiễn của Thượng Tọa hệ, tức là bỏ đi khách trần khôi phục bản tính, phương pháp họ dùng cùng Nguyên Thủy Phật học là nhất trí, tức tiên kiến, và sau tu (Tu đạo) kiến đạo làm minh bạch đạo lý của tư đế, cũng gọi là Hiện Quán Tứ Đế, Tu đạo tức tu hành, chủ yếu là dùng thiền định phương pháp tu đạo của nhà phật là Thiền Định. Thượng Tọa hệ đặc biệt coi trọng phương pháp này, cho nên “Xá Lợi Phất Vấn Kinh” khi nói đến đặc điểm của Hóa Địa bộ dùng “Thiền Tư Nhập Vi, Cứu Sướng U Mật” để hình dung, có thể thấy công phu thiền định của phái này rất thâm nhập, đối với lý luận của thiền định giảng rất tế chí.
“Di Bộ Tông Luân Luận” khi đề cập đến chủ trương của Hóa Địa bộ. Cũng nói “Đạo chi giai thị niệm trụ sở nhiếp”. Đạo chi một số điều giảng là 37 bồ đề phần, mà Hóa Địa đều lấy niệm trụ (định) làm trung tâm, các bồ đề phần đều cùng niệm trụ có quan hệ, Khả Vĩ thấy bọn họ coi nặng đặc sắc của Thiền định cũng như “Xá Lợi Phất Tỳ Đàm” ở trong “Đạo Phẩm”, từ nhất chi đạo (tức một con đường) đến thập nhất chi đạo, tổng cộng tổ làm 11 đạo, nhất chi đạo của nó là “Thân niệm xứ” (thân niệm trụ) là Tứ niệm trụ, trong đệ nhất nệm trụ, bọn họ coi đó là con đường duy nhất để lý giải, tất đây cũng có thể thấy bọn họ đối với Thiền định nắm lấy (sở trì) thái độ cực đoan.
Bọn họ thiền định điều không phải là đơn giản, không động tâm, mà là từ trong thiền định đối với tâm tính thêm sự nhận thức phân tích và nghiên cứu. Bọn họ phân tích quá trình tâm lý rất là đạt đến tinh tường. Nam Phương Thượng Tọa “Pháp Tự Luận” đối với tâm tính chất tốt xấu, địa vị, giai đoạn v.v. thêm vào sự phân tích tường tận, được ra 89 loại phạm trù, do vậy tái quy nạp làm một số biểu hiện tác dụng tâm lý làm 12 tâm tái, khái quát 12 tâm làm 9 loại, là làm 9 Tâm:
1) Trong lúc ở trạng thái bình tịnh gọi là hữu Phân Tâm
2) Trong lúc động niệm sanh khởi kinh giác, giống như khi ngủ mới thức giấc, gọi là chuyển Hướng Tâm
3) Do đây tùy vào ngũ căn có 5 loại cảm giác tác dụng gọi là Kiến Tâm
4) Có Kiến rồi thì đối với cảnh giới cảm thọ khổ lạc, gọi là Thọ Trì Tâm
5) Do đây phân biệt Thiện Ác, gọi là Phân Biệt Tâm
6) Cũng an lập cảnh giới của tướng trạng, gọi là Phân Biệt Tâm
7) Như thế quyết định phát khởi tác dụng, gọi là Tốc Hành Tâm
8) Là giả sự cảnh giới cường thịnh bèn tiếp tục dẫn khởi phản tỉnh hoặc tác dụng huân tập, gọi là Quả Báo Tâm
9) Từ nơi đây chiếu theo cũ khôi phục đến trạng thái bình tịnh trở lại gọi là, Hữu Phân Tâm.
Tại trong trước tác của Đường Nhân như “Duy Thức Khu Yếu” v.v. thông thường gọi những cái trên là “Cửu Tâm Luận”. Hình dung châu kỳ của nó trở lại lúc khởi thủy, luân chuyển không ngừng, Cửu Tâm Luận Cộng, có 12 loại tác dụng, nó khả dĩ thể diện trên một cái sự tình, và cũng khả dĩ thể hiện tại trên quá trình một đời của con người. Con người từ khi có sinh mệnh bắt đầu, gọi là “Kết Sanh Tâm”, về sau chiếu theo “Cửu Tâm Luân” phát triển xuống cho đến thọ mạng hoàn kết, gọi là “Tử Tâm” Từ Kết Sanh Tâm, cho đến”Tử Tâm” trong đoạn thời gian đó, ở giữa không biết đã qua bao lần “Hữu Phần Tâm” “Hữu Phần Tâm” luân chuyển. Cho nên một cuộc đời của con người, Cửu tâm tuần hoàn vãng phục, cho đến “Tử Tâm” khi đến cái Hữu Phân Tâm này, thì mới gọi là Kết thúc.
Thượng Tọa bộ đem cái phía sau của Kết Sanh là Hữu Phân Tâm coi thành tối sơ, đem cái Hữu Phân Tâm ở trước tử vong coi thành là tối hậu. Cái lý luận này, khiến học thuyết của Phật giáo mang khuynh hướng Hữu Ngã rồi. Nguyên Thủy Phật học, nguyên là phủ nhận là có hành vi của con người chủ thể thực tại “ngã” nhưng không thừa nhận là một hồi (lần) việc. Tại trong thực tế thì lại cũng đại giảng “Nghiệp Lực” và “Luân Hồi”, thường nhận “Nghiệp Lực” và “Luân Hồi” không có “Ngã” là nói không thông. Như vậy tức khiến sau này thuộc Độc Tử bộ thì công khai chủ trương là có Bổ Đặc Ca La. Các bộ phái khác thì nhặt lấy các thuyết biến tướng. Thượng Tọa bộ “Hữu Phân Tâm” quán triệt sanh tử, thành ra chủ thể ở giữa của sanh, tử và cũng là một loại biến tướng của ngã rồi.
Nam Phương như vậy, tại Bắc Phương của Hóa Địa bộ phát triển thành ra “cùng sinh tử uẩn” Hóa Địa chủ trương chư hành (uẩn) có hai loại phương thức vận hành, một là “Nhất Niệm Uẩn” (tức Sát na diệt hành) và một nửa là “Nhất Sanh Uẩn”, tức là liên tục từ sanh đến chết). Sở dĩ gọi “Nhất sanh Uẩn” không chỉ thừa nhận một kỳ sinh tử, mà là thừa nhận còn phải tái sinh, thẳng đến cuộc giải thoát mới kết thúc. Cho nên có tên là (cùng sinh tử uẩn) cái chủ trương này. Cùng Nam Phương “Hữu Vân Tâm” hoàn toàn tương tự càng là một giống biến của ngã. Rồi Thượng Tọa hệ học thuyết xuất hiện khuynh hướng của “Ngã” việc này trên thực tế cũng là Nguyên Thủy Phật học chưa có thể giải quyết vấn đề logic, vị trí phát triển. Tất nhiên phải có kết quả của nó.
Tại trên lý luận giải thoát. Thượng Tọa bộ đối với Nguyên Thủy Phật học cũng là có sự phát triển. Nguyên Thủy Phật học chỉ giảng “Nhân Ngã Không” Thượng Tọa bộ thì giảng đến Tam Giải Thoát Môn (tức không ,vô tướng, vô nguyện cũng là một loại phương pháp thiền định). Thì trong ấy tiến đến giảng “Pháp Vô Ngã” với cái lý luận này. Tại Nam Phương trước tác của Thượng Tọa bộ có minh bạch giải nói, trước tác của Bắc Phương Thượng Tọa bộ thì không rõ ràng. Một số cho rằng, Tiểu thừa Không giảng pháp không, Pháp vô ngã và còn cho đây là sự tiêu chuẩn của sự (chia rẽ) khu phân của Đại và Tiểu thừa. Đây có thể do tài liệu của Bắc Phương không đầy đủ và đưa đến sự ngộ nhận, do “Nhân Không” đến “Pháp Không” thì nên gọi là một việc mới phát triển đối với Nguyên Thủy Phật học.
Sau cùng thử nói về vấn đề phương pháp luận của Thượng Tọa bộ. Thượng Tọa bộ là chủ trương “Phân Biệt Thuyết”. Tự bọn họ cũng thừa nhận, như Nam Phương Thượng Tọa tự xưng là ”Phân Biệt Thuyết Thượng Tọa” nhưng mà, Bắc Phương đối với tính chất này rất mơ hồ, cho nên ngoài “Hóa Địa” “Pháp Tạng” còn lập ra một cái khác và có tên “Phân Biệt Luận Giã” tựa như là có một phái khác vậy. Đặc biệt là trong “Bà Sa” của Hữu bộ còn lấy nó làm thành một cái luận địch trọng yếu, do nơi đối với học thuyết của bộ phái không hiểu giải đầy đủ, cho nên mọi người đối với “Phân Biệt Luận Giải” không biết nó chỉ vào gì, và cũng xuất hiện các giống nghị luận, cận đại học giả như những năm sớm thì người Nhật là Thích Chiêu dùng trong “Bà Sa” của “Phân Biệt Luận Giả” đã có chủ trương 40 điều. So sánh cùng các bộ phái, cho rằng “Phân Biệt Luận Giả” thực tại là chỉ “Hóa Địa bộ”. Sau này Mộc Thôn Thái Hiền phản đối thuyết đó, cho rằng là cõi từ “Dị Bộ Tông Luân Luận” những chủ trương này xác thực là Hóa Địa, nhưng mà coi ở “Luận Sự” của Nam Phương, tức đồng giới Hóa Địa và cũng đồng với Án Đạt. Bởi thế ông ta nghĩ rằng Án Đạt là thuộc hệ Đại Chúng “Phân Biệt Luận Giã” là đồ của Đại Chúng bộ. Nhưng không phải thuộc về toàn thể Đại Chúng bộ mà là thuộc về Du Quân của Đại Chúng hệ. Thích Chiêu là chuyên nghiên cứu văn Pali, mà còn đã coi nhẹ “Luận Sự” một bộ sách trọng yếu của Nam Phương Phật giáo. Mộc Thôn phản đối Thích Chiêu, và dính đến điểm này cũng phản đối luôn.
Trên sự thật hai người vẫn chưa giải quyết được vấn đề này. “Bà Sa Luận”, sở dĩ nói đến Phân Biệt Luận Giã”, chỉ là phạn thuyết (không thiết thực), lúc ấy một số người có thái độ và phương pháp thái dùng phân biệt thuyết và đều không có chỉ định phái nào. Trong ấy tức có Hóa Địa cũng có Thượng Tọa Nam Phương. Thậm chí ở Án Đạt của Đại Chúng bộ, bởi vì phương pháp luận là thông dụng cho tất cả mọi người. Nhưng mà Thượng Tọa hệ cùng “Phân Biệt Thuyết Luận Giã” liên hệ mật thiết hơn mà thôi.
Tiết Thứ Ba
Trọng điểm của Thuyết
Nhất Thiết Hữu Bộ hệ học thuyết
- Nguyên lai tư tưởng của thuyết Nhất Thiết Hữu
- Từ A Tỳ Đạt Ma Sư đến hình thành của bộ phái
- Tam Tạng biên soạn
- Cửu Sư Thuyết
- Tỷ dụ Sư Tiền khu giã (người đi trước)
Na Tiên Tỳ Khưu
- Địa phương phái biệt dưới Quí Sương Vương Triều
- Tây Phương sư pháp Thắng, Hiệp Tôn Giả, Thế Hữu v.v
Bốn nhà Tăng hộ
- Ca Thấp Di La Su Ca chiên diên ni tử và đệ tử v.v
- Hữu bộ chủ yếu học thuyết cùng Thượng Tọa hệ đối lập
- Ngũ sự Khu phân
- Thuyết Hữu và Thuyết Nhân
- Tứ gia giải thích Tam Thế Thực Hữu
- Ảnh hưởng đối với học thuyết sau này của tổ chức của
- Thiền số học
Sở dĩ nói nhất thiết Hữu, là nguyên nhân bọn họ cho rằng nhất thiết pháp đều có tự tính của nó, là một giống thực tại Hữu không phải do một số tài liệu hỗn hợp lại mà giã có, loại tư tưởng này làm thế nào mà sinh ra? chúng ta có thể từ lúc sau khi hình thành bộ phái, tại trong “Thức Thân Túc Luận” mà giải thích tự chủ trương và thấy được nguồn gốc tư tưởng của bọn họ, giống lại tư tưởng này. Trên cơ bản là do nơi bọn họ đối với nhân ngã (Bổ Đặc Ca La) phủ nhận mà lại. Bởi vì không có nhân ngã, thì là chỉ có thể có ngũ uẩn thôi, nhà phật thông thường giảng nhân ngã tức do ngũ uẩn tổ hợp lại mà thành. Mỗi một giống uẩn đều là tập hợp thể (uẩn tức tự ý) ở đây bao hàm cả quá khứ hữu, Hiện tại Hữu, Vị lai Hữu. Như đem sắc uẩn nói, tức bao hàm quá khứ sắc, hiện tại sắc, vị lai sắc. Cho nên từ chỗ mà có thể thấy ra thành phần của ngũ uẩn, thực tại là Hữu. Nhưng mà nói Hiện Tại Hữu, bất quá nói hiện tại Hữu, cái này thường thức đã thừa nhận, đến mà quá khứ vị lai cũng là Hữu, thì không phải là các phái đều thừa nhận. Mà nói “Nhất Thiết Hữu bộ” đều là từ phủ nhận. Nhân ngã xuất phát, thừa nhận ngũ uẩn. Bởi ngũ uẩn bao hàm Tam Thế Hữu. Sau rốt tất nhiên đi đến bước thừa nhận Nhất thiết pháp Hữu. Quá trình cấu thành tư tưởng của nhất thiết Hữu là như vậy đó.
“Di Bộ Tông Luân Luận” khi nói đến chủ trương của nhất thiết Hữu, bắt đầu trước tiên là nói “nhất thiết hữu bộ bản tông đồng nghĩa với, quá khứ, vị lai thể cũng thực hữu. Có thể thấy đây là đặc điểm trọng yếu của học thuyết của phái này. Loại chủ trương này trong Phật Thuyết “Kinh” “Luật” đều không có thể tìm thấy có văn tự rõ ràng. Mà là tự sự thủy luận giải thích từ của A Tỳ Đạt Ma ra lại, thời kỳ sơ khởi, đặc biệt có đề xướng A Tỳ Đạt Ma Sư của A Tỳ Đạt Ma. Sau đó từ từ khuếch đại cấu thành một phái biệt. Đây tức là nhất thiết Hữu, cấu thành của phái này còn là phản đối nơi Hóa Địa không thừa nhận quá khứ, vị lai Pháp Hữu và hình thành trong sự tranh biện thời gian phái này thành lập, khó có thể xác định. Nhưng mà có thể đoán định loại tư tưởng này xuất hiện hơi sớm. Tại thời A Dục Vương, khi Mục Liên tử đế tu kết tập, thì tư tưởng của phái này đã có sự lên men, Sau lại phái đi các Thượng Tọa đến các nơi tuyên giáo, phái đi mấy nhà đi đến Tây Bắc Ấn Độ, đại khái cụ hữu loại tư tưởng này tương đối nhiều người. Sau này rốt lại tại các vùng ấy hình thành phái thuyết Nhất Thiết Hữu. Thời gian đại khái ước từ A Dục Vương đến Vương Triều Khổng Tước diệt (250-185 BC) Không đến trong 100 năm. Sau khi bộ này thành lập thì tự có cho mình bộ Tam Tạng, đương nhiên là sự tổ chức lập thành Tam Tạng là phải trải qua một thời kỳ, cứ theo sau này của bộ luật Văn này Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Tỳ Nại Da Tạp Sự (quyển 39) đã ghi lại. Sau khi Phật diệt lần thứ nhất Kết Tập, lúc (500 kết tập) hình thành bộ Tam Tạng của chính mình. Kinh cũng là Tứ A Hàm, nhưng thứ tự số cùng các phái có dị, là đem tương ưng coi là kinh điển căn bản, đặc cở vị trí đầu. “Tương ưng” là kết cấu của A Hàm là Tứ Phần Thập Tụng ( Tụng bởi Kết tập là hình thức hội tụng). Một hồi tụng ra xong, là một tụng tương ưng là mười hội tụng ra, cho nên có Thập Tụng, các loại A Hàm khác cũng là các nội dung này, chỉ là tái sắp theo các Thiên Trường đoản và quan hệ pháp số mà sắp đặc theo cách khác mà thôi.
Luật thể tài cũng là thập tụng, tên “Thập Tụng Luật” có thể tường tận phân chia xuống làm tám mươi tiểu đoạn (80 bộ).
Luận là giảng các loại của Pháp, tên “pháp uẩn” là kinh Phật nói một số tính chất A Tỳ Đạt Ma cộng 25 loại, cấu thành một bộ “pháp uẩn”.
Liên quan đến Tam Tạng của phái này, tình trạng của bản dịch Hán Văn là: Hán dịch “Tạp A Hàm” tức gần như “Tương Ưng A Hàm Kinh”. Ở điểm này người trước không thông hiểu rõ ràng, qua sự nghiên cứu của chúng tôi thì mới làm minh bạch. “Du Già Sư Địa Luận” phía sau 14 quyển “tức quyển 85-98) tức bảo tồn”. Tạp A Hàm bản mẫu (bản mẫu là nói có thể y cứ theo yếu chỉ mà phát huy), chúng tôi tất căn cứ nó đối với Tạp A Hàm mà tiến hành chỉnh lý, đoạn định. Hán dịch “Tạp A Hàm” tức là căn bản thuyết nhất thiết Hữu Bộ của “Tương Ưng A Hàm” của bọn họ “Trường và Tăng Nhất A Hàm” không có Hán dịch. “Trung A Hàm”. Trung Quốc có phiên dịch, đây là gần đây do học giả người Nhật từ bản dịch Tây Tạng phát hiện ra trong “Cụ Xá Luận Chú” của “Tịch Trụ Thiên” Tịch chủ thiên chú có một cái đặc điểm là nó đem trong “Cụ Xá Luận” sở dẫn, xuất xứ của kinh đều chỉ ra. Đặc biệt là đối với dẫn dụng nơi “Trung A Hàm” chỉ ra khá tường tận. “Trung A Hàm” toàn bộ tổ chức với một số thể tài là Thập Tụng là một nhiếp tụng (tức mỗi thập kinh, có một tụng, đem nó quy lại thành một loại). Chú giải của Tịch Trụ Thiên, đem dẫn văn thứ mấy nhiếp tụng, thiên thứ mấy đều chỉ rõ ra, như thế khi tìm kiếm rất dễ hơn nhiều, trải qua tra đối có thể thấy “Cụ Xá Luận” đã dẫn dụng tức là của Hán dịch” “Trung A Hàm” “Cụ Xá Luận” tất nhiên là thuộc về của Nhất Thiết Hữu Bộ” vậy đây là đã chứng minh Hán dịch. “Trung A Hàm cũng thuộc Về của “Nhất Thiết Hữu Bộ” vậy đây là đã chứng minh Hán dịch. “Trung A Hàm” cũng thuộc về của” Nhất Thiết Hữu Bộ”. Luật của bộ phận. Trung Quốc cũng có bản dịch “Thập Tụng Luật” của Diêu Tần dịch là cái lược bảng thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ có hai loại bản lưu hành. Một là tại Jih Bin lưu truyền được bản. Một là tại Ma Thâu La lưu truyền quảng bổn. Sở dĩ gọi là lược bản, tức là lược đi của trong quảng bản nhân duyên. Tỷ dụ, Mộc sanh, Diêu tần dịch là lược bản. Về sau Đường Nghĩa Tịnh chuyên môn đi Ấn Độ tìm luật, khi đem về trong luật tất có của Quảng Bản, ông ta phiên dịch và đặt tên là “Căn Bản thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Tỳ Nại Da”. Lúc đang thời tại Ấn Độ luật này rất lưu hành, rất tiếc hiện tại bản còn lại đã không hoàn toàn, phía trước mấy bộ phận đều có, phía sau liên quan đến bộ phận của Nhị Thập Thất Sự (27 Sự) đã tàn khuyết. Luận là dịch của Huyền Trang “Pháp Uẩn Túc Luận” trong luận giải thích pháp uẩn của các kinh, cộng 20 kinh, nội dung hoàn toàn.
Từ thuật ở trên theo tình trạng có thể thấy ra thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ, tam tạng của họ cùng các bộ khác không đồng. Tại trong Hán dịch, Kinh,Luật, Luận các bộ phận đều có một số Phạm Văn thì trừ luật hình như còn tàn bản ra, khác thì không còn nữa.
Nhất Thiết Hữu Bộ học thuyết từ từ phát chuyển hoàn thiện, mới bắt đầu nghị luận, hậu thế gọi là Cựu A Tỳ Đạt Ma Sư thuyết. Tại trong “Tỳ Bà Sa Luận” còn bảo tồn cựu sự thuyết phiến. Thí dụ như giải thích “Tứ Đế” (có thể coi là bộ phận chủ yếu của Cựu Sư thuyết), tức có cái nói bất đồng như vậy bọn họ dùng ngũ thủ uẩn lại để giải thích, nhận là căn bản của Khắc thật bát khổ, tức là ngũ thủ uẩn, nó chỉ ra nhất thiết của ngũ thủ uẩn. Không phải là một loại của ngũ uẩn mà lạ cụ bị hủ lậu, tính chất nhiễm ô của Thủ Uẩn. Tại làm sao có thể thành là hữu lậu? Nguyên nhân của nó tại phiền não, đây tức đã làm thành công Tập Đế. Muốn diệt Tập Đế làm sao diệt đây? Tất cần phải có trí tuệ triệt để nhận thức nhân khổ. Đắc được đến đoạn diệt, thuật ngữ nhà Phật gọi là “Bỉ Trạch Diệt ( Bỉ, Nhân Khổ Trạch, Chiết Trạch, nhận thức “Diệt đoạn diệt). Đây là phương pháp đối trị tích cực, thành công là Diệt đế. Đối với hữu lậu nhân trạch diệt, phải có rất nhiều công phu, đây tức là Đạo đế. Đạo đế cũng tức là nhất thiết hữu học, vô học giai đoạn sở ứng tu tập Đạo và Tổng hợp.
Căn cứ theo sự thích thuật bên trên mà coi thời kỳ sơ khai của học thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ (Cựu Sư Thuyết) vẫn còn rất thô và Không tinh tế, chỉ là loại đàm luận rất bình thường. Sau này từ từ phát triển, càng ngày càng đi về thâm khắc,tế mật. Nhân vật chức danh của nó có Na Tiên Tỳ Kheo, dịch là Long Quân, truyền thuyết lúc ấy ông ta cùng Di Lan Đà Vương, ở vùng Tây Bắc Ấn Độ (là sao khi Khổng Tước Vương Triều diệt vong, là quốc gia do người Hy Lạp thống trị) có qua sự vấn đáp, cũng đã cảm hóa Ni Lan Đà tín ngưỡng Phật giáo, thậm chí còn nói Ni Lan Đà bỏ Vương vị mà xuất gia nữa. Một số cảm hóa thuyết pháp lưu lại ghi tải, tức là bản dịch chữ Hán là “Na Tiên Tỳ Khưu Kinh” (có bản hai quyển, có bản ba quyển, hai loại bản dịch). Tại Nam Phương Thượng Tọa Bộ Pali văn điển tích cũng có một loại “Ni Lan Đà Vương Vấn Kinh” nội dung nhiều hơn so cùng Hán dịch, cộng 7 quyển, là có sự bổ sung của người sau. Nam Phương rất coi trọng nó. Miến điện đem nó biện vào trong “Tạp Bộ” coi là có giá trị cùng ngang hàng với phật thuyết. Từ bản của Hán dịch mà coi thì Na tiên là Hữu Bộ, ông ta luôn toàn dùng hình thức tỷ dụ cùng Di Lan Đà Vương Vấn đáp, thậm chí sau này tỷ dụ sư, có thể gọi là người tiên phong trong tỷ vụ sư.
Ở trong thời kỳ này, học thuyết Hữu Bộ so sánh cùng Cựu Sư Thuyết thì bất luận trên nội dung hay hình thức đều tinh tế nhiều rồi. Na Tiên thuyết nội dung chủ yếu là hiển minh vô ngã, nhưng cũng nói đến có luân hồi, và còn nói đến tình hình Phật và Niết Bàn về sau, từ nội dung của Na Tiên và Di Lan Đà Vương Vấn đáp mà coi, là lúc đương thời một số người đối với lý luận của Phật giáo có vấn đề không liễu giải, mượn Di Lan Đà Vương phát vấn đề ra, Na Tiên đại biểu Phật gia dùng hình thức tỷ dụ để giải đáp. Như lúc đang thời thì luân hồi là một vấn đề, luân hồi làm sao từ thân này quá độ đến thân khác? Na Tiên dùng “Như hỏa truyền Tân”để mà giải đáp. Như có hai cây nến, cây nén giáp cháy gần hết truyền lửa cho cây nén ất. Cây ất tiếp tục cháy luân hồi của con người từ thân này quá độ qua thân khác, tình đồng như vậy. Đối với luân hồi chủ thể thì như lửa, tất không thể nói lửa này tức là lửa trước, cũng không thể nói cùng lửa trước không quan hệ, cũng như nghiệp luật không mất cũng là vấn đề được đề ra ở Lúc ấy. Na Tiên tất lấy “như trồng giống thì có quả) lại để trả lời. Người gieo trồng giống là hạt giống, thì thâu hoạch là quả, và nếu mà ăn cắp quả trên cây thì có tính là phạm pháp không? Có thể nói là ăn cắp quả chứ không phải ăn cắp giống, người trồng là hạt giống, mà ta ăn cắp là quả mà? đương nhiên không thể. Nghiệp lực không mất tất do như do hạt giống và cuối cùng được quả y vậy. Có thể thấy nghị luận của Na Tiên đã không phải như cách nghị luận quá tầm thường của Cựu Sư.
Tây Bắc Ấn Độ có một thời kỳ dài ở dưới sự thống trị của Hy Lạp. Phật giáo truyền vào các nước ở đây. Theo lý mà nói, tư tưởng Hy Lạp cùng tư tưởng Phật giáo hổ tương ảnh hưởng từ “Kinh Na Tiên Tỳ Khưu” có thể ra tư tưởng Phật giáo có ảnh hưởng đối với tư tưởng Hy Lạp, tư tưởng Hy Lạp đối với Phật giáo thì sao? có những ảnh hưởng gì? Tình huống cụ thể ra ? Việc này đều phải chờ tiến thêm một bước nghiên cứu, “Kinh Na Tiên Tỳ Khưu” là một tài liệu giúp chúng ta nghiên cứu.
Thế kỷ thứ nhất công nguyên. Quý Sương Vương Triều thế lực rất lớn xâm nhập Tây Bắc Ấn Độ, sau đóng đô ở Kiện Đà La. Đời thứ nhất, theo Trung Quốc văn hiến sử ghi lại, tên Khưu Tựu Khiếp tín ngưỡng Phật giáo. Đời thứ hai tên Diêm Cao Chân tín ngưỡng Bà La Môn. Đời thứ ba tên Ca Nhị Sắc Ca Vương tín ngưỡng Phật giáo, hai đời quốc vương tín ngưỡng Phật giáo, đều là ủng hộ Hữu Bộ. Nhân vậy thế lực Hữu Bộ được phát triển rất lớn. Một vùng Kiện Đà La là khu trọng điểm phát triển ra ngoài, phàm là những nơi thế lực Quý Sương Vương Triều vươn tới, như Ca Thấp Di La v.v. Học thuyết Ngũ Bộ cũng lưu hành rất rộng, như vậy, Hữu Bộ cũng dần dần hình thành một phái biệt ở địa phương, cũng nhân chủ trương của nội bộ phân kỳ (chia rẽ, chia phân), lại phân liệt ra làm Ca Thấp Di La Sư, Đông Phương Sư, Kiện Đà La Sư, Tây Phương Sư, hai bên nhân số đều nhiều, nghị luận thì bất tương đồng.
Người đại biểu đời đời thứ nhất của Tây Phương Sư là Pháp Thắng. Ở niên đại vào thời kỳ sơ khai của Quý Sương Vương Triều quan điểm của ông ta là tập trung để biểu hiện ở trong nơi căn cứ tối cổ của phật thuyết Tỳ Đàm Kinh đã viết “A Tỳ Đàm Tâm Luận” (có Hán dịch), phạm vi nó đã siêu quá Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ đã nói pháp uẩn, nhân vì từ cổ Nhất Tỳ Đàm mà coi. Pháp ẩn chỉ là một phần trong 9 phần mà thôi, quy mô của “A Tỳ Đàm Tâm Luận” lớn tương đương 9 lần bội hơn pháp uẩn. Sau pháp thắng có Hiệp Tôn Giả, ở vào niên đại hơi sớm hơn Ca Vương một tí, trước tác có “Tứ A Hàm Luận” tức “Tứ A Hàm Ưu Bà Đề Xá” Trung Quốc chưa dịch. Về sau là Thế Hữu trước tác có “Ngũ Sự Luận” “Vấn Luận” hai bộ sách đều phiên vào trong phẩm loại luận. Huyền Trang sở dịch, “phẩm loại túc luận” ông ta còn viết giải thích kinh của một số Tỳ Đàm gọi là “Giải Kinh Luận” Hán dịch đề tên là “Bà Tu Mật Sở Tập Luận”. Thế Hữu trước tác tương đối nhiều. Hán dịch vẫn còn một bộ “Dị Bộ Tông Luân Luận” niên đại của ông ta, thì truyền thuyết không nhất trí, có người cho rằng “phẩm loại túc” “Bà Tu Mật Sở Tập Luận”.
Tông Luân Luận, tác giả không phải là một người, chỉ là cùng tên mà thôi, nay coi lại, có khả năng vẫn là một người. Huyền Trang cho rằng ông ta cùng Ca Vương là cùng thời. Trên thực tế sợ sớm hơn một chút, cùng với Thế Hữu cùng thời còn có một vị pháp cứu, bị sưng là Đại Đức, và cũng có trước thuật “A Tỳ Đạt Ma” nhưng mà tên sách không tường, có người gọi là “Pháp Cứu Luận”. Hiện nay sự truyền của Hữu Bộ dùng “Pháp Cứu Kinh”, tức là ông ta đã có cãi đính qua. Còn thêm một vị Diệu Âm đã thích chú “Sanh Trí Luận” trong Hán dịch có tên “Cam Lộ Vị Tỳ Đàm Luận” có phải sách này còn chưa rõ. Sau trót một nhà nữa tên Giác Thiên, trước tác của ông ta không rõ, bốn nhà này Thế Hữu, Pháp Cứu, Diệu Âm, Giác Thiên. Từ sau này, từ “Bà Sa Luận” coi lại họ có địa vị trọng yếu bằng nhau, cho nên có bị cho là “Tứ Bình Gia” (bốn nhà phê bình) tức là trong nhiều nghị luận, thuyết của bốn nhà có thể cân và chuẩn tắc, thời đại của họ, đại thể tương đồng, ngoài ra còn một nhà Tăng Già La Sát (Chúng Hộ) truyền thuyết là Quốc Sư của Ca Vương, bản Hán dịch có của ông ta là “Tăng Già La Sát Sở Tập Kinh” nội dung thiên về Phật hành sự, như đem một đời của Phật 45 năm an cư ở các địa điểm làm sự ghi tải lại, đối với sự nghiên cứu phật sử, có rất nhiều giá trị tham khảo.
Đông Phương Sư thì đại biểu tối chủ yếu là Ca Chiên Diên Ni Tử, là người 100 năm trước Ca Vương, ông ta tác “Phát Trí Luận” dùng nhiều loại hình thức A Tỳ Đạt Ma để giải thích các yếu nghĩa có trong kinh, có giải thích văn nghĩa, có phân biệt pháp môn, có lựa tuyến tính tướng, và cũng có phá trừ dị thuyết. Nội dung đầy đủ, rất tinh tế tường tận trong các loại A Tỳ Đạt Ma, toàn bộ sách chia tám uẩn. Tạp, Pháp, Trí, Nghiệp, Đại Chủng, Căn, Định, Kiến, đem nội dung giống nhau trong A Hàm biên sắp hợp lại, thành tám loại này. Lúc đầu Hán dịch có tên là (Bát Kiền Độ Luận). Sau Huyền Trang đổi tên là “Phát Trí Luận” lúc ấy người Ấn tín ngưỡng luận này rất nhiều. Môn nhân của Ca Chiên Diên Ni Tử cũng tường tận chú thích luận này. Thành ra “Tỳ Bà Sa” ý là nói rộng ra, tên của các môn nhân truyền lại rất ít, Hán dịch truyền thuyết có ba nhà:
1. Dar Shi – Thuyết của ông ta quá phiền
2. Tỳ La Ni – Thuyết của ông ta đơn giản
3. Thi Đà Bàn Ni – Chỉ có ông này là phân lượng vừa phải.
Hán dịch có tên 14 quyển Tùy Bà Sa, lưu hành rất rộng, một vùng Ca Thấp Di La là thế lực của Hữu Bộ, đặc biệt là thế lực của đệ tử Ca Chiên Diên Ni Tử, tương đối lớn mạnh, bọn họ vì bày bác dị kỷ, muốn biên soạn một kinh điển cao siêu trên các nhà khác. Cho nên lấy “Phát Trí Luận” làm căn bản, dẫn dụng lục bộ luận làm bổ sung, gọi là “Lục Túc Luận” đồng thời cũng hái lấy lời của các nhà (như Tây Phương Sư Hiệp Thắng Tôn Giả v.v. nói trong ấy bao quát sự phê bình đối với bọn họ). Sau hết biên soạn thành “Đại Tỳ Bà Sa Luận, lấy được địa vị đại biểu của học Thuyết Hữu Bộ, liên quan đến sự biên soạn, nảy sinh ra rất nhiều loại truyền thuyết, có cho rằng khi biên soạn sách là dưới sự chi trì ủng hộ của Ca Vương Triệu tập 500 La Hán để tiến hành, có người thì cho rằng do Hiệp Thắng Tôn Giả phát khởi, Thế Hữu làm thượng tọa biên trích, và còn cho rằng văn chương là do Mã Minh Viết, sau này truyền thuyết càng khuếch đại, nói rằng không những biên trích quyển sách này không đâu mà còn biên trích luôn Tam Tạng nữa, cũng nói là lần biên trích này là sau khi Phật niết bàn là lần kết tập thứ ba (Vương Xá thành 500 người kết tập là lần thứ nhất, Phục Xá Ly 700 người kết tập là lần thứ hai). Nếu như đem thời A Dục Vương Đế tư có lần tập kết tính vào, thì đây là lần kết tập thứ 4 rồi, nhưng Bắc Phương không có nói đến thời A Dục Vương lần kết tập thứ ba, giống như Nam Phương không đề cập tới lần kết tập. Ở thời Ca Vương vậy, bất quá nên chú ý là Bắc Phương thì thuy sùng Ca Vương. Cho nên bọn họ truyền thuyết đoàn kết tập thứ ba cũng không tin được, tổng chi các loại truyền thuyết đều là vì đầy cao địa vị của tự tông mà thêm vào sự biên tạo.
Trên thực tế Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ là từ Thượng Tọa Hệ Hóa Địa Bộ chia ra, cho nên trọng yếu học thuyết của nó, đều cùng Hóa Địa Bộ bất đồng gần như độc lập với nhau trên các phương diện. Đây là từ “Dị Bộ Tông Luân Luận”đã liệt cử ra trên 50 điều mà hai nhà kỳ nghĩa kỳ thị và thành thật luận đã ở trên khái quát 10 cái luận điểm đối chiếu đều có thể thấy ra sanh ra những cái độc lập này có số là lùn lý luận có liên hệ nội tại có số thì sợ là do cố ý lập dị lại trong ý kiến của đối lập đáng chú ý là vấn đề tâm tính Tịnh hay bất tịnh phiền não của tỳ miên vấn đề truyền có phải là cùng tâm tương ứng.
Hữu bộ không chủ trương tâm tính bản tịnh, đối tùy miên và triền cũng không như Thượng Tọa bộ dùng hiện hành và tập khí lại để chia phân. Cho rằng hai thứ đều phiền não, chỉ là do biểu hiện không giống. Cho Triền và Tùy Miên là khắc tên, theo họ giải thích, Tùy Miên là đi theo hữu tình mà chuyển, và là cứ theo mãi rất chặt không thể chia (có tùy phọc (tùy là theo, phọc là trói buộc) nghĩa là sự trói buộc cũng không phân chia hiện hành và tập khí. Bọn họ chỉ ra có bảy loại mang tính căn bản của phiền não gọi là “Thất Tùy Miên, tức là: Dục, Tham, Sân, Hữu Tham, Mạn, Vô Minh, Kiến, Nghi. Tất nhiên Tùy Miên là phiền não rất thường có. Cho nên cùng tâm tương ứng, cũng là một tâm sở, vậy tức là nói tâm là tạp nhiễm mà không phải bản tịnh. Tâm tịnh tất nhiên không phải là bản tịnh thì cũng làm sao đắc đến giải thoát? Nguyên lai bọn họ đem tâm chia ra làm Tạp Nhiễm Tâm, Ly Nhiễm Tâm hai loại, bỏ đi Tạp Nhiễm Tâm. Thực hiện Ly Nhiễm Tâm tức đắc giải thoát.
Trừ ra cái này hai phái cũng có số lý luận có tính cộng đồng, thí dụ như: Thuyết nhất thiết Hữu Bộ đem nhất thiết pháp tối hậu quy làm “Danh, Sắc” hài đại loại “Danh” là trong ngũ uẩn trừ đi “Sắc” uẩn, còn bổn uẩn, còn bổn uẩn kia, tất tương đương với Thượng Tọa Hệ đã giảng của bộ phận Tâm. Quan hệ liên quan với “Tâm” cùng “Sắc” cũng giống như Thượng Tọa Hệ lấy “Danh” “Tâm” làm điểm xuất phát, như thuyết sắc là sở kiến Thành là sở Văn v.v. thứ đến, khi nói đến Hữu Vi pháp. Bọn họ cùng Thượng Tọa Hệ cùng là Sát Na Diệt Giã. Cho rằng Hữu Vi chư pháp đều là Sát Ra Sanh Diệt.
Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ đối với sự phân tách nhất thiết pháp là có phát triển, nhưng không phải hướng về phương diện phân tách vi tế để phát triển, mà là tổng hợp các tản kiến trong kinh điển các thuyết pháp linh tinh rồi làm cho hệ thống hóa, với hạng công việc này Thế Hữu hoàn thành rất xuất sắc, có thể làm đại biểu cho Hữu Bộ trong “phẩm loại túc luận” ông ta đem tất cả những gì Phật nói quay lại làm ngũ sự (sự chỉ pháp loại luận của đệ nhất phẩm tức làm “ngũ sự phẩm” là một cái độc lập tính của Thiên chương): 1) Sắc Pháp 2) Tâm Pháp 3) Tâm sở hữu Pháp (tức là tương ưng hành) 4) Tâm bất ưng hành 5) Vô Vi Pháp. Trong mỗi loại pháp, ông ta còn liệt cử ra có thể làm cơ bản, cụ hữu tự tính của pháp (cơ bản đơn vị) loại này bao quát tại trong ngũ đại loại. Các cơ bản pháp, là có thể cấu thành các phục hợp pháp, khác tỷ như:
1) tại Sắc Pháp có bốn đại loại :Địa, Thủy, Hỏa, Phong) và bốn đại loại tạo sắc (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, xắc, thinh, hương, vị, súc, vô biểu sắc) cộng lại là 15 loại.
2)Tâm Pháp sáu loại, tức là lục thức
3) Tâm Sở Pháp, bỏ đi trùng phục (lập lại) có thể quy kết làm 27 loại
4) Bất tương ưng Hành Pháp có 16 loại
5) Vô Vi Pháp có 3 loại, tổng cộng 67 loại
Ngũ sự 67 phần phát này, người đời sau ít nhiều có số biến đổi nhưng quy mô là ở lúc này định xuống rồi.
Sở dĩ gọi là Thuyết Nhất Thiết Hữu Tức là nói ngũ loại 67 pháp này có tự tính của nó, và còn tiến thêm một tầng nữa mà nói, những pháp này tương đãi, tương y, dĩ hình thức của duyên khởi mà tồn tại. Và cũng nói là hổ tương làm nhân quả tại trong liên hệ nhân quả, như A Pháp làm quả này của B Pháp. A pháp dĩ tính chất của quả xuất hiện, loại quả này cũng là thực tại. Tổng lại, Hữu Bộ không chỉ cho rằng Nhất Thiết Pháp thật tại mà nhân cũng thật tại. Bởi vậy nó còn một tiêu chí hiển tác (minh bạch) đặc điểm và có tên là “Thuyết Nhân Bộ”. Các bộ khác cũng nói “Nhân” nhưng xác định thật tại của nhân, đối với nhân có sự phân tách thật là đặc sắc của Hữu Bộ. Nam Phương “Pháp Tự Luận” giảng 24 duyên. Bắc Phương “Xá Lợi Tỳ Đàm” giảng 10 duyên, điều giản đến đầu mối tạp loạn, phiền phức nhất là uế tạp. Hữu Bộ đem nó giản hóa đi, chỉ liệt cử luận của hai miền Nam Bắc trong ấy bốn loại trước là nhân duyên, đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, Tăng thượng duyên. Trong bốn loại còn có trọng điểm, nhân duyên là khởi chủ yếu tác dụng trong các loại. Có thể nói là nhân ở trong nhân. Bọn họ đối với nhân duyên thêm sự phân tách tường tận, liên cùng các nhân làm thành duyên, cấu thành thuyết 6 nhân:
- Tương ứng nhân, các loại nhận thức đều nương theo tâm và tâm sở hợp tác mới có thể thực hiện. Chúng nó phải đồng thời sanh khởi, đồng nhất sở y (căn) (đồng nhất phải dựa vào căn) đồng nhất sở duyên (cảnh) đồng nhất hành tướng (phân biệt). Như vậy bốn sự đồng đẳng rồi càng thêm hổ tương vọng, thì có ý nghĩa tương ưng mà tồn tại.
- Cu Hữu nhân. Phàm là đồng thời mà khởi chủng chủng pháp, đối với sinh quả có đồng một tác dụng. Tượng tâm cùng tâm.sở, tùy tâm mà chuyển của thân nghiệp, ngữ nghiệp, hoặc bất tương ưng hành. Còn có bốn đại “loại đều khởi lên, bị thử tương vọng đều thuộc loại này.
- Đồng loại nhân. Đây là quan dự dị thời của nhân quả, như quá khứ của Thiện Tính pháp, đối vị lai hoặc hiện tại đồng một giới hệ của Thiện Tính Pháp. Hiện tại của Thiện Tính Pháp đối vị lai của Thiện Tính Pháp cũng ba thế bất thiện tính pháp tương đối (vô giới hệ hạn chế) vô ký tính tương đối, đều là nhân nà. Đây còn có thể đẩy xa đến quá khứ đến nhìn quá khứ? vị lai đến nhìn vị lai. Phàm tiền sanh (kiếp trước), thiện đẳng pháp, nhìn kiếp sau. Thiện đẳng pháp, cũng có nghĩa đồng loại nhân.
- Biến hành nhân. Đây là từ trong đồng loại của bất thiện pháp phân biệt ra lại, chỉ cho là một số phiền não pháp có mạng phổ biến sinh khởi hậu quả nhiễm pháp nhân tính mà nói.
- Dị Thục nhân. Đây là từ tính chất đắc quả lại phân biệt, cùng hai loại trên bất đồng, sở dĩ chỉ ra thiện bất Thiện Tính. Hữu lậu tâm tâm sở pháp, đều bao quát tùy tâm chuyển nơi sắc và bất tương ưng, đối nơi sở cảm chiêu hậu thế vô lậu vô ký tính nơi sắc, tâm, bất tương ưng hành (mệnh căn, chúng đồng phân), nói đủ loại pháp quả. Ngoài ra, thân ngữ nghiệp, vô tưởng, định, diệt pháp, định v.v. bất tương ưng hành pháp, năn sanh dị thục quả, cũng thuộc nơi này. Phía trên năm giống khái quát rồi tự năng sanh quả nhất thiết nhân duyên.
- Năng tác nhân. Cái này chỉ có tác dụng ở sự giúp đỡ, hoặc giả tiêu cực bất tương chướng ngại, mà có lợi nơi quả pháp sinh khởi như đẳng vô gián, sở duyên, tăng thượng. Ba loại sớ duyên. Phạm vi của nó rất rộng lớn, có thể nói trừ ra bản thân pháp thể, còn dư ra các pháp đều có tư cách trở thành nhân này.
Liên quan đến học thuyết sáu nhân, là một sáng tác của Hữu Bộ các phái khác không có thuyết này, cùng cả danh mục cũng không có. Cội nguồn của thuyết này từ đâu lại? Theo Hữu Bộ tự nói là từ tổng hợp trong kinh phật các loại bất đồng thuyết pháp mà tổng kết ra, tại trong sáu nhân, thấy rõ là Hữu Bộ đặc biệt chú ý đến tâm pháp, như đem tương ưng để lên địa vị số một giảng tâm cùng tâm sở và tương ưng của các pháp khác, cũng trong sáu nhân nơi năm loại trước, khả dĩ bao quát nhất thiết nhân duyên, loại sau tức khái quát rồi trong bốn duyên của ba duyên sau. Do nơi Hữu Bộ một phương diện giảng bốn duyên, phương diện khác càng chú ý đến phân tách đối với nhân, bởi thế khiến học thuyết nhân duyên càng thêm hoàn bị, nó sở dĩ đạt được danh xưng “Thuyết Nhân Bộ” là không phải không có nguyên nhân.
Phía trên là nhìn từ liên hệ của pháp nhân quả. Ngoài ra, trừ trên phương diện thời gian của pháp mà nói, Hữu bộ là chủ trương tam thế thật hữu. Khi họ luận cái vấn đề này, hái lấy và dùng phương pháp của thể dụng phân biệt. Cho rằng pháp thể là tam thể cụ tồn pháp dụng tức là hiện tại mới có. Vô thể tức vô dụng, không có quá khứ của thể, tức không có hiện tại của Pháp. Càng không có hiện tại của dụng. Hiện tại là tiếp thừa của quá khứ giống như vậy. Vị lai cũng là diên tục của hiện tại. Với cái nói này cùng với lý luận sát na diệt của bọn họ là có liên hệ. Trong bất tương ưng hành pháp của bọn họ có “Đắc” “Thành tựu” cùng “phi đắc” “Bất thành tựu” hai pháp, cho rằng “Đắc” là thật tại phàm pháp cùng đắc liên hệ lại với nhau. Thì quá khứ vị lai đều có, ngược lại “phi đắc” thì chỉ hiện tại hữu, quá khứ, vị lai bình quân không có phân biệt đối với tam thế, các nhà Hữu Bộ còn có các nghị luận không giống nhau, đầy đủ tính đại biểu có bốn nhà.
- Pháp cứu, chủ trương theo thứ tự phân loại, Quá, hiện, vị của pháp thể là một chỉ là loại thì bất đồng mà thôi. Như vàng làm ra trang sức hoặc vật dụng cho sự ăn uống, cho tên nó là cái ly hay cái hoàn (cái vòng tay) hay các tên khác nhau, trên thực tế đều là vàng.
- Diệu âm, chủ trương lấy tương phân: Quá, hiện, vị của pháp thể là một, tướng thì không giống, thể cùng tướng kết hợp, tức có thể xác định nó thuộc về của một thế nào.
- Thế Hữu, chủ trương lấy vị phân, vị trí của tam thế không giống nhau. Cho nên có phân biệt quá,hiện, vị (vị lai), như trong toán học những số mã (1,2,3) nhưng nếu để vào vị trí khác nhau (lẻ, chục, trăm) tức có ý nghĩa không giống nhau.
- Giác Thiên, chủ trương sắp xếp theo đải phân. Đãi là tương vọng, ý nghĩa là tương đãi tam thế chỉ là tương vọng không giống nhau (như hiện tại nhìn quá khứ làm hiện tại thứ tự) pháp thể là một, như một người nữ tướng vọng nơi phụ mẫu là con gái, tướng vọng nơi con cái là mẫu thân.
Bốn loại thuyết này, qua sự phê bình và quyết định của người sau, nhận rằng chỉ có Thể Hữu là chủ trương hợp lý. Một phương diện tức là thuyết minh pháp thể chỉ có một, đồng thời cũng nói rõ là do nơi vị trí không giống mà tâm thế hữu biệt. Cho nên sau trót thống nhất là dùng lấy thuyết của ông ta. Phê bình đối với ba cái thuyết kia là, lấy loại mà chia thì cùng thuyết chuyển biến của phái số luận hỗn tạp với nhau, bị cho rằng không thuần, lấy đải mà phân, thuyết minh một sự vật mà có mang hai thân phận trùng nhau, hiển nhiên là hỗn tạp, lấy tướng mà phân cũng bị mắc vào hỗn loạn nhất pháp bất biến, nhưng khả dĩ cùng các loại tướng liên hệ với nhau. Cho nên Hữu Bộ đã nói tam thế thật hữu, tức là chỉ nhất pháp tam vị mà nói.
Thuyết Thế Hữu bị cho là làm định luật, là cùng với địa vị cao của ông ta ở trong Hữu Bộ có quan hệ nhất định. Ông ta uy tín cao, cùng tác phẩm của ông ta “phẩm loại túc luận” ở trong Hữu Bộ coi đó làm trước tác có tính cách kinh điển có quan hệ. A Tỳ Đạt Ma chân chánh của nhà phật phải là phật thuyết “cửu phần tỳ Đàm”, nhưng Hữu Bộ chỉ có pháp uẩn chia làm căn bản, tự nhiên cảm thấy không đủ. Nhưng là vì muốn biểu thị đặc thù của bản bộ, bọn họ cho rằng pháp uẩn mới chính là của chính mình, và cũng không chịu thâu nạp thuyết cửu phân. Sách của Thế Hữu đem cửu phần tổ chức lập lại mới, bao quát tất cả tài liệu vào trong ấy, có đủ nơi cửu phần nội dung thực tế mà lại không có danh mục nơi cửu phân, để bổ túc cho cái khuyết điểm này. Cho nên thành là cơ bản A Tỳ Đạt Ma của Hữu. Người sau lấy nó bổ sung “phát trí luận” gọi nó là “Túc” (đầy đủ), mà cũng là một cái “Túc” trọng yếu. Đây là nguyên nhân Thế Hữu được coi trọng. Do vậy, có người nói ông ta là Bồ Tát và tương lai nhất định thành Phật, và còn nói rằng “Đại Tỳ Bà Sa” kết tập là ông ta chủ trì v.v. đều phản ảnh ở Hữu Bộ ông ta có uy tín và địa vị rất là cao.
Học Thuyết Hữu Bộ, trên cơ bản là từ A Tỳ Đạt Ma phát triển mà ra. A Tỳ Đạt Ma chú trọng tư biện, phân tích, cho nên tại trong Hữu Bộ thực tiễn cũng có mang khuynh hướng thiên nặng về tri giải, nguyên là Thượng Tọa Bộ coi trọng truyền thống thiền định. Hữu Bộ thì chưa có thể tiếp thụ toàn bộ. Bọn họ cũng không phế bỏ thiền định, mà là ở tại trên cơ sở của A Tỳ Đạt Ma vận truyền thuyết nhà phiên dịch. Trung Quốc có nói “Thiền Số học” “Số” tức là A Tỳ Đạt Ma ( A Tỳ Đạt Ma dịch là đối pháp, có khi cũng gọi là số Pháp), Ý nghĩa là dùng các chủng loại để đếm pháp môn và cộng vào sự phân biệt. “ Thiền Số học” tức là một mặt giảng Thiền, một mặt giảng số, loại học thuyết này được phát triển ở Trung Quốc, và có ảnh hưởng tương đối, đối với phật học Trung Quốc, Tỷ như Trung Quốc từ khi khởi sự chính thức tự có phiên dịch. An Thế Cao tất cả phật điển đã dịch. Trọng điểm là ở giới “Thiền Số học” trong ấy đặc biệt trọng yếu là của Chúng Bộ (Tăng Da La Sát), tu hành đạo địa kinh. Nó là lấy quan sát ngũ uẩn của A Tỳ Đạt Ma thuyết làm nội dung cơ bản của Thiền định, cũng tức đồng loại Thiền định chia ra làm ba thừa (Thinh Văn, Duyên giác Bồ Tát), giai đoạn của cao thấp không giống nhau. “Đạo Địa” tức là tầng thứ của tu đạo. Sách này của chúng hộ, có tính đại biểu của nó, cho nên đến Tây Tấn, trong tay trúc pháp hộ, lại dịch lại một lần nữa. Trùng dịch là 7 quyển của Quảng Bản. Tiếp nửa Diêu Tần La Tạp, cũng lại dịch ra “Tọa Thiền Tam Muội kinh”. Sách này là La Tạp đem các học giả của Tây Phương đặc biệt là các trước tác thiền chủ yếu của các nhà thuộc về Hữu Bộ và cộng thêm biên trích mà thành. Trong ấy bao quát Đồng Thụ, Thế Hữu, Chúng Hộ, Chúng Quân, Cận Hộ, Hiệp Tôn Giả, Mã Minh v.v. thuyết pháp của các đại đức thuộc Hữu Bộ, cùng đồng thời ở đây. Giác Hiền cũng dịch “Đạt Ma Đa La Thiền Kinh” ( Giác Hiền là thiền sư có sư thừa) La Tạp thì bằng vào cái biết của mình và sự trích thuật). Tác giả của Thiền Kinh có hai nhà, một là Đạt Ma Đa La (pháp cứu), một nửa là phật Đại Tiên, Giác Quân và hiện chỉ còn lại Thiền Kinh của Phật đại tiên. Đạt Ma Thiền pháp hoặc giả sau này do duyên cớ đã thành bí truyền mà không công khai nữa. Thiền Tông Trung Quốc tất cả nhờ vả nặng vào Đạt Ma Đa La làm Sơ Tổ của họ, từ những thuật lại vào thực sự mà coi. Như vậy có một số coi nặng Tọa Thiền trong Hữu Bộ, cùng cũng đã truyền và dịch đến Trung Quốc mà được phát triển.
Sau cùng là lược nói về ảnh hưởng về sau của Hữu Bộ học. Tư tưởng bảo thủ của Hữu Bộ rất nặng, kiên trì cái nói nhất vảng, Ngã về một bên, rất là ngoan cố. Các phái Thượng Tọa Hệ còn có sự thông dụng linh hoạt, như “ Dị Bộ Tông Luân Luận” đa ghi, cách thuyết của Thượng Tọa Hệ thường cùng đại chúng tương đồng, có cái còn dùng nhau làm thành một, các hệ phái khác. Chủ trương của họ cũng không phải là thủy chung nhất trí. Duy độc Hữu Bộ bảo thủ đến cùng. Sở dĩ nói nhất thiết Hữu thực chất cùng Thượng Tọa học thuyết một thứ, đều có thể quy kết làm duy tâm nhị nguyên luận. Đồng thời bọn họ đã nói nhất thiết hữu không phải là chỉ về vũ trụ nhân loại nhất thiết sự vật, chỉ là như sau này bọn họ trong “phẩm loại túc luận” đã khẳng định phạm vi ngũ sự, 67 pháp. Bọn họ căn cứ vào cái gì để khẳng định một số pháp này? tức là bọn họ xuất phát từ thực tiễn, tại trên thực tiễn bọn họ cảm giác đến nên kiến lập tức nói thành thực tại là nên khẳng định. Trên loại cơ sở này kiến lập lý luận, phát triển đến sau rốt, một phương diện biến thành là kinh viện triết học. Chỉ đối với lời Phật nói làm đủ loại chứng minh. Chứng minh nó thực tại, phiến diện khác cũng lại đem cái thực tại tính của các pháp này coi là chỉ như một vật khái niệm. Đảo ngược lại thực tại chân thật thì không có đầy khinh trọng. Ấn Độ Phật gia, một trong bốn nhà đại tông là Bà Sa Tông, có đủ thế lực rất lớn, đồng thời cũng đủ để trở thành số đông người, để mà phản đối nó kiến lập Trung Quán Tông. Trung quán tông tức là phản đối Bà Sa đối với các loại khái niệm thực tại cực đoan luận mà hình thành.
Trung quán luận sau này được đến phát triển rất lớn, liên quan nơi tài liệu của Hữu Bộ còn bảo tồn lại rất nhiều, có dư cho sự tiến hành nghiên cứu.

Bài Viết Liên Quan
Xăm Quan Thánh 80
Xăm Quan Thánh 80: Hạ Hạ 第八十号簽 下下一朝無事忽遭官也是門衰坆未安改換陰陽移禍褔勸君若作等閒看碧仙注有是有非天所使免求地理與星辰皆而久守祈天佑來福祿臨祸不侵 Âm: Nhất triêu vô sự hốt triêu quan,Diệc thị môn suy phần...
LINH XĂM ĐỨC THÁNH TRẦN HƯNG ĐẠO – QUẺ SỐ 35
QUẺ SỐ 35 – ĐẠI CÁT TRIỆU Khô trúc sinh duẩn DỊCH Tre khô mọc măng TỔNG THI Đống diệp...
CHƯƠNG II: I – LƯỢC SỬ MẬT-TÔNG TÂY-TẠNG
I. LƯỢC SỬ MẬT TÔNG TÂY TẠNG Trước khi Mật Giáo được truyền sang Tây Tạng, dân chúng nơi đây...
Bài Pháp Số 6: Đại Bồ Tát Duy Ma Cật Giáo Hóa Ma Ha Ca Chiên Diên
Tôn giả Ma Ha Ca Chiên Diên (Mahākātyāyana) là một trong mười đại đệ tử nổi tiếng của Phật Thích...
Xăm Quan Thánh 92
Xăm Quan Thánh 92: Trung Hạ 第九十二号簽 中下今年禾穀不如前物價喧勝倍百年灾數流多行疫癘一陽復後始安全碧仙注破財重重見最後不雷同病主沈沈滯訟事必先凶 Âm: Kim niên hòa cốc bất như tiền,Vật giá huyên đằng bội...
LINH XĂM ĐỨC THÁNH TRẦN HƯNG ĐẠO – QUẺ SỐ 9
QUẺ SỐ 9 – HẠ HẠ TRIỆU Khô mộc vô chi. DỊCH Cây khô không cành. TỔNG THI Vạn sự...
Tử Vi Sao Thiên Cơ – Hãm Địa
Tổng quan:Thiên Cơ là sao của mưu trí, tính toán, nhưng khi hãm địa thì đầu óc mụ mị, có...
7. TẬN THẾ VÀ HỘI LONG HOA
Hội Long Hoa - Long Hoa Đại HộiNguồn gốcHội Long Hoa hay Long Hoa Đại Hội là giai đoạn khảo...