Tiết Thứ Tư
Trọng yếu điểm của học thuyết
- Độc Tử hệ
- Dị Thuyết tên Độc Tử Bộ (Độc Tử Khả trụ tử đệ tử)
- Địa khu lưu hành (Từ trung bộ đến Tây Ấn)
- Thôi trắc nội dung của Tam Tạng
- Bộ phái thêm lần phân liệt
- Tiếp theo ra của kinh luận
- Dị đồng của chủ yếu học thuyết với Hữu Bộ
- Hữu ngã thuyết
- Nghiệp luận cùng bảy đạo thuyết
- Duy vật tư tưởng phát triển.
Về sau này trong sự phát triển của bộ phái phật học, do Độc tử phân hóa ra là chánh lượng đã thay thế địa vị chính thống của Độc tử. Cho nên có lúc cũng đem Độc tử nói thành chánh lượng bộ. Như nghĩ tịnh ký quy truyện chỉ ra là lúc ấy tiểu thừa của Ấn Độ chia ra bốn đại phái. Chánh lượng là một trong ấy, phái này xuống nữa chia làm bốn bộ, có thể thấy chánh lượng đã thay thế địa vị của Độc Tử rồi. Chính là bởi như vậy, đối với tên chính của Độc Tử, phản ngược lại là không thật minh bạch rõ ràng. Nên sanh ra các loại cách nói, tại trong “Dị Bộ Tông Luân Luận” bộ Huyền Trang dịch tên là Độc Tử cùng có giới thiệu tên của nó do đâu ra. Độc Tử là tên của chủng tộc, phạn âm là Bạt Sa Vat Sa. Họ nguyên là có quốc gia riêng Kiều Thưởng Di. Lúc Phật mới chuyển pháp luân tại Ba La Nại Tư về phía Tây. Bộ này sở dĩ lấy tên là Độc Tử, tức do bộ chủ Bạt là người Sa Tộc, cho nên gọi là Bạt Sa Phất Đa La (Vatsuputra). Phía trước nghĩa là Độc, phía sau nghĩa là tử. Nhưng tại nam truyện tiểu thừa phân bổ, thì kêu nó là Bạt Kỳ Tử. Bạt Kì cũng là tên chủng tộc phạn văn là VRJI, Huyền Trang dịch âm là Phất Lợi Đặc , dòng Bà Kỳ, này nguyên là một trong tám tộc đã cấu thành nước cộng hòa phệ xá ly. Nên là ở đông bộ của Ấn Độ, như vậy cùng nước Độc Tử cách rất là xa. Tại sao Nam Truyền lại có cách nói sai dị như vậy? Nguyên nhân là do Nam Truyền tại lúc kết tập lần thứ hai. Bạt Kỳ Tử cái tên này thành một phái chính thống, coi là dị phái. Độc tử nguyên là cùng Hóa Địa đối kháng mà phân chia. Nam phương tôn trọng Hóa Địa, cho nên đem cái tên Bạt Kỳ Tử cộng vào cùng Hóa Địa đối lập là Độc Tử. Chân đế dịch và Tây tạng dịch không phải tên là Bạt Kỳ Tử, cũng không phải tên là Độc Tử, mà gọi là Khả Trụ Tử (VÀSA, nghĩa là trụ). Nguyên danh đã không rõ cũng có thể là VASATIPUTRA. Bọn họ đem bộ môn này gọi là Khả Trụ tử đệ tử bộ, đối với cái nguyên do cái tên này, giải nghĩa rất là khúc triết. Cứ theo thuyết khả trụ là tên của Tiên Nhân. Trong tộc của Tiên Nhân, có phụ nữ cũng gọi là Khả Trụ, con của bà ta cũng gọi là Khả Trụ. Đồ chúng của Khả Trụ Tử cấu thành bộ phái mà có tên là Khả Trụ Tử Đệ Tử Bộ. Các loại giải thích khúc khúc triết triết, vu hồi (vòng vèo, quanh co) cũng nhận thấy là cái lý của nó khó hiểu. Các loại viển vông công quẹo của giải thích, có thể là nguyên nhân không thể minh bạch về cái tên của bộ này có quan hệ.
Phía trên thuật lại bề trái của các loại dị thuyết, thì tồn tại lại hàm nghĩa của bất đồng. Cái này đáng nên chú ý: gọi nó là Độc Tử Bộ, là vì địa điểm lưu truyền của nó thiên về hướng tây gọi là Bạt Kỳ Tử. Là bởi vì nó cùng Hóa Địa đối kháng, biểu thị nó phải phản đối, gọi nó là Khả Trụ Tử Để Tử Bộ là do nó tính phụng “Xá Lợi Phất Tỳ Đàm” theo thuyết có cho là một hệ Khả Trụ Tử là do La Hầu La truyền, La Hầu La là con của Phật. Phật thành đạo sáu năm sau về, ông ta mới quan hệ với sự truyền thừa này. Khả Trụ Tử hệ tất lấy “Xá Lợi Phất Tỳ Đàm” làm điển cứu.
Các địa khu của Độc Tử Bộ lưu hành, căn cứ theo các văn hiến và các tư liệu khảo cổ (thí chủ quyền hiến các khắc văn lưu lại), là từ Trung Ấn dần dần đến Tây Ấn, cuối cùng thì ở lại Tây Ấn.
Nghĩa Tịnh đi Ấn vào lúc thế kỷ thứ bảy, thế lực bọn họ rất mạnh và lớn. Tại Ma Lập Bà hình thành một trung tâm Phật giáo, cùng Na Lan Đà ở trung Ấn đối kháng, đồng thời còn có thể thấy ra Độc Tử Bộ phát triển cùng với lúc ấy từ ngoài xâm nhập vào là Seh Tộc có quan hệ. Seh tộc nguyên là một dân tộc thiểu số ở vùng Tân Cương Trung Quốc, do Nguyệt Thị bị hung nô áp bức, cho nên phải di cư Nguyệt Thị lại bức Seh Tộc, khiến họ thiên dời về hướng Ấn Độ, ước lượng vào khoảng thế kỷ thứ hai AC, Seh Tộc xâm nhập Ấn Độ, đều tại Bắc Ấn, Tây Ấn, Trung Ấn kiến quốc, gần Trung Ấn đã lập một nước tại Ma Thâu La. Theo tư liệu khảo cổ chứng minh. Độc Tử Bộ tức ở tại vùng đất lưu hành, quốc gia được lập nên ở Tây Ấn lấy Mã Lạp Bà làm trung tâm, đến thế kỷ thứ nhất AC, càng xâm nhập Ấn Độ về phía Tây Nam, là Mo Syr Tsyh two (nằm gần Mon bay). Độc Tử Bộ cũng liên tục ở các vùng này phát triển quốc gia. Seh tộc ở Ấn Độ rất nổi tiếng về thương nghiệp. Đặc biệt là phía tây gần biển có thể cùng tây phương là Ba Tư, Á Rập cho đến La Mã thông thương, từ tài liệu khảo cổ thấy ra, ủng hộ Độc Tử cũng đa số là thương nhân (trong kinh thường đề cập đến trưởng giả, cư sĩ tức là những người này) với tình trạng xã hội như vậy, cũng ảnh hưởng đến học thuyết của Độc Tử Bộ, rất nhiều chủ trương của họ. Thật là phản ánh ý thức của tầng lớp giai cấp này. Từ truyền thuyết của Bạt Kỳ kết tập mà coi. Độc Tử Bộ cũng có cho tự họ bộ Tam Tạng, việc này trên sự thật cũng là ó. Huyền Trang cũng từng tinh cứu tập hợp lại 14 bộ. Độc Tử Tam Tạng đem về, ông ta lúc ở tại Ấn Độ còn chuyên môn học tập hết hai năm, về căn bản Tỳ Đàm của Độc Tử. Căn cứ theo nghĩa Tịnh “Nam Hải Ký Quy Truyện” ghi lại. Độc Tử Bộ có số lượng Tam Tạng rất lớn. Lúc đang thời tiểu thừa Ấn Độ. Tam Tạng của bốn đại bộ phái đại đệ đều là mười vạn tụng, mà chánh lượng hai mươi vạn tụng, nhiều hơn gấp bội. Luật Tạng số lượng cũng lớn, có ba vạn tụng, dịch ra cũng hơn trăm quyển. Nghĩa Tịnh không có đề cập tới tình trạng của Luận Tạng, rất tiếc rằng nội dung của các Tam Tạng này đã không thể biết được. Các bộ phái khác hiện nay còn tồn tại trong bản dịch luật, đều ghi lại nội dung của tự các phái Tam Tạng. Tuy không được đầy đủ, nhưng cũng có thể giải được đại khái. Mà Độc Tử Bộ hiện nay chỉ còn lại một bộ 24 tụng “Minh Liễu Luận” (Luật luận). Quá là đơn giản, khó mà căn cứ theo để nghiên cứu nội dung Tam Tạng của nó. Hiện nay chỉ có thể từ trong các sự ghi lại khác thêm sự suy đoán liệu tường. Căn cứ theo “Cụ xá luận” tư liệu còn lại, kinh Độc Tử Bộ tụng trong Hán dịch Tập, Trung A Hàm đều có. Hán dịch Tập, Trung A Hàm chúng ta đã định chắc là của Hữu bộ, Độc Tử Bộ cũng tụng các kinh này. Có thể thấy kinh của bộ cũng có rất nhiều giống nhau. Luật cũng có tình huống loại tương tự.
Từ “Minh liễu luận coi luật của bọn họ cũng cùng Hữu Bộ cũng gần giống nhau. Cử thí dụ mà nói, trong giới có một loại là Ba Dật Đề (pàyattika) đọa số các điều của các bộ không giống nhau. Có 90 điều và trên hơn 90 điều. Một loại khác là Naihsargik-prayascittika. (Xóa địa giới) các bộ đều là 30 điều, nhưng thứ tự liệt bài có khác nhau. Độc Tử hệ sau cùng 10 điều cùng Hữu Bộ sắp xếp theo thứ tự gần giống nhau. Từ hai điểm này có thể thấy ra luật tạng của hai bộ cũng sai biệt không nhiều, Luận, bọn họ tín phụng “xá lợi phất tỳ đàm” truyền thuyết của các nhà và dịch của La Tập Trong “Đại Trí Luận” đều nói như thế, nhưng cái này cùng Hán dịch có trái ngược lớn, như Độc Tử thừa nhận Hữu ngã, giảng lục đạo luân hồi. Đây là do nguyên nhân gì? Có thể họ dùng một bản khác, truyền thuyết của các nhà cũng chưa chỉ rõ nó dùng cái bản nào.
Huyền Trang tại Ấn học qua Tỳ Đàm của bọn họ, đem nó gọi là Căn Bản Tỳ Đàm của chánh lượng bộ. Chưa đề cập đến cái tên “Xá Lợi Phất Tỳ Đàm” này, đó rất có thể tức là Độc Tử dùng, nội dung Tỳ Đàm cũng có thể là Ngũ Kết Cấu. Vấn phân, Phi Vấn phân…còn rất có thể tại trong phi vấn phân “Nhân Phẩm” (dịch bản “Xá Lợi Phất Tỳ Đàm” Phi Vân phân”) trong ấy có “nhân phẩm” có một số chỗ có đặc thù, bởi họ chủ trương hữu ngã là làm sao hữu, phải nên tại trong phẩm này có sự giải thích, cái này có thể từ Nam Phương Tỳ Đàm suy và trắc nghiệm mà biết. Nam Phương Tỳ Đàm có đem Bổ Đặc Ca La làm trọng điểm của sự phản đối, mà làm luật thuật. Bổ Đặc Ca La là Giả Hữu (giả có), mà đặc biệt biên bộ “Nhân Thi Thiết Luận” ngoài ra “Luận Sự” (Nam Phương Tỳ Đàm) đệ nhất phẩm cũng là thảo luận các vấn đề này. Cùng như nghị luận của Độc Tử Bộ, đối đầu với nhau. Như vậy Độc Tử kiên quyết chủ trương là có Bổ Đặc Ca La, và do vậy nên cùng các bộ khác đối lập với nhau, và cũng nên có một phẩm chuyên thuật về nghĩa này. Nhưng mà những việc này không có văn bản chứng minh, chỉ có thể suy nghiệm mà thôi.
Cứ theo “Dị Bộ Tông Luân Luận” cùng “Chân Đế” đã chia rẽ theo “Dị Bộ Tông Luân Luận” ghi lại, là do nói đối với “Kỷ giải thoát canh Đọa” giải thích tụng ấy mà khởi lên, cái nói này không thể tin được, không thể do một tiểu tiết, mà tạo thành chia rẽ, theo truyền thuyết của Chân Đế, là do nơi đối với sự giải thích “Xá Lợi Phất Tỳ Đàm” không giống nhau. Các nhà tự tạo sự giải thích bổ sung mà dẫn đến với lối nói này. Có thể là có lai lịch . Độc Tử chia làm bốn phái . Hiền Vị, Pháp Thượng là một bên, Chánh Lượng, Mật Lâm là một bên. Sau khi chia rẽ các nhà tự có độc lập trước tác trong Hán dịch hiện còn bảo tồn một số như “ Tam Pháp Độ Luận” (Tên bản dịch khác là “A Hàm Một Sao” là thuộc về bên Chánh Lượng.
“Tam Di Để Bộ Luận” là âm dịch của Chánh Lượng, học thuyết của hai bên này, cũng là bất đồng. Như giảng luân hồi. Độc Tử bắt đầu giảng lục đạo. Chánh Lượng, Mật Lâm, Sơn Cũng Giảng. Lục Đạo mà Hiền Trụ thì giảng ngũ đạo, thời gian mà họ chia rẽ có thể rất trễ (sau này). “Dị Bộ Tông Luân Luận” chỉ ở lại sau chót đề ra tên của bốn bộ và đối với chủ trương của họ nói rất giản lược. Sau này mới dần bổ sung lên. Như Chân Đế dịch “Bộ Chấp Dị Luận” đối với Độc Tử bổn tông đồng nghĩa bổ sung thêm mười mấy điều. Sách Tây Tạng sở dịch Thanh Biện có liên quan Dị Bộ Tông nghĩa đối với thuyết Chánh Lượng bổ sung thêm mấy mươi đều.
Độc Tử, sau khi thêm một lần chia rẽ. Còn tiếp thêm ra một số kinh luận như “Chánh Pháp Niệm Xứ Kinh”. Theo đường nhân truyện nói là của Chánh Lượng Bộ, nội dung của kinh. Chủ yếu giảng nghiệp báo, luân hồi, liên quan với ngũ đạo hay vấn đề lục đạo. Kinh này nói tường tận ATuLa, nhưng không minh bạch thiết thực, đem nó phân làm một đạo. Phân tích từ nội dung, kinh này có thể thuộc hệ hiện trụ, sau chót của kinh còn giảng đến Tứ Niệm Trụ của thân niệm trụ, cùng “Xá Lợi Phất Tỳ Đàm” một nhánh đạo (cũng làm Thân Niệm Trụ) tương tự. Cho nên không ngại khẳng định nó là kinh của về sau lần tái chia rẽ, là làm bổ sung cho “Xá Lợi Phất Tỳ Đàm” mà sáng tác, ngoài cái này. Luận Tạng sau này lại tiếp tục ra có “Tam Di Để Bộ Luận” “Nhiếp Chính Luận” (đem sở thuyết của Kinh Chánh Pháp Niệm xứ hợp lại thành tụng văn.
Hán dịch có tên là “Chư Pháp Tập Yếu Kinh” “Thánh Giáo Thực Luận” (Chưa truyền, Cư Sa Ba Viết, chuyên môn thừa nhận có Bổ Đặc Ca La) v.v..Có thể thấy hệ này không những có luận, mà là tương đối phong phú nữa.
Học thuyết chủ yếu của Độc Tử bộ cùng Hóa Địa đối lập, mà Hữu bộ cũng cùng Hóa Địa đối lập, do vậy Độc Tử cùng Hữu bộ phân kỳ không nhiều, từ Hữu bộ bảo tồn cho nó tư liệu mà coi, như “Dị Bộ Tông Luân Luận chỉ đưa ra tám điều chủ trương không giống. Sau này “Đại Tỳ Bà Sa Luận” cũng chỉ đưa ra sáu bảy điều, nhưng cùng “Dị Bộ Tông Luân Luận” đưa ra đều không tận giống nhau. “Đại Tỳ Bà Sa Luận” quyển hai có ghi Độc Tử cùng Hữu Trương bất đồng chủ yếu là như mấy điểm sau:
- Độc Tử cho rằng tùy miên cùng tâm bất tương đồng
- Niết bàn có ba loại. Học, Vô Học, Cụ Phi, (Thông thường Phật học chỉ ra Hữu dư, Vô dư hai loại)
- Luân hồi có lục đạo. ATuLa cũng tính một đạo (một số chỉ giảng ngũ đạo)
- Bổ Đặc Ca La thật có, có thể thấy Độc Tử cùng Hữu bộ phân kỳ đều không nhiều, nhưng mà sau này chánh lượng từ Độc Tử phân chia ra. Học thuyết có sự phát triển, Bỉ, Thử càng ngày càng lớn. Nhưng mà mặc dù Độc Tử và Hữu bộ có nghĩa lý phân kỳ không nhiều, quan hệ thì rất là trọng yếu. Độc Tử chủ trương Bổ Đặc Ca La là có, đem nó xem thành Đế Nghĩa (là một sự thật tại, không phải hoa trong gương, trăng dưới nước giả có). Thắng Nghĩa (không phải có được trong truyền thuyết mà là thực chứng). Chủ trương này, không những tại trong nội bộ, các phái Phật Giáo coi là rất làm đặc thù. “Thành Thực Luận” đem đặc điểm của học thuyết các phái quy nạp lại làm Thập Luận. Đối với Độc Tử thì chỉ ra một đều này. Phật giáo cùng các học phái khác không giống nhau là ở chổ chủ vô ngã (Tại Ấn Độ trừ Je Fuo Chye- Thuận thế luận ra, chỉ có Phật giáo không thừa nhận hữu ngã). Các học phái khác đều thừa nhận hữu ngã. Mà lại cũng cùng Bà La Môn thừa nhận ngã nhất trí. Do vậy chủ trương của Độc Tử khiến người ta cảm thấy đặc thù, nhưng mà, từ lý luận mà coi họ đề xuất một chủ trương này, không phải là từ sự việc đơn giản. “Dị Bộ Tông Luân Luận” nói: Ngoài cái này ra Độc Tử bộ bổn tông đồng nghĩa, nói Bổ Đặc Ca La không phải uẩn (cũng ngũ uẩn không phải là một sự việc) Ly Uẩn (cũng không phải là hai sự việc).
Tổng lại mà nói, họ đối với trong Phật Giáo, các học phái liên quan với ngã chủ trương bất đồng đều qua một số khảo lự, tức không tán thành các phái khác của Phật giáo chỉ đơn giản phủ nhận hữu ngã. Cũng phản đối các phái ngoài Phật giáo chỉ đơn giản thừa nhận hữu ngã. Lý luận của bọn họ là đem ngã cùng ngũ uẩn,đã đề ra ở thời kỳ Nguyên Thủy Phật Học, tức thân cùng mệnh là một hay khác, tướng tức là vẫn còn tướng ly của vấn đề (thân tức ngũ uẩn, mệnh tức là ngã) nhưng mà, Nguyên Thủy Phật Học tránh né nó. Không thêm phúc đáp, bây giờ cũng lập lại đề ra, muốn tiếp tục trốn tránh, thế không có thể Độc Tử bộ làm đáp nói: Không thể phiến diện để coi cái vấn đề này, tức không thể đơn giản nói một, nói dị, cũng không thể đơn giản mà nói thường hoặc vô thường.
Từ đây đề xuất ra cách nhìn của chính mình là: Phi tấc, Uẩn, Ly Uẩn, Y Uẩn xứ giới giả thì thiết danh. Như vậy đem sự có quan hệ đến cách nói của Phật học cho có sự điều hòa. Ngoài ra, cũng đem ngã quy kết làm loại pháp khác. Chĩa mũi nhọn đối với Hữu bộ, bọn họ pháp Phật nói quy làm năm loại: 1) Quá Khứ, 2) Hiện Tại, 3) Vị Lai (ba cái này thuộc về hữu vi pháp), 4) Vô Vi Pháp (siêu của thời gian, Hữu bộ cũng có loại pháp này), 5) Bất Khả Thuyết Pháp (tức bất khả định thuyết). Bổ Đặc Ca La thì quy lại ở pháp sau cùng, đối với nó không thể nói chết, phải là phiến diện nói uẩn, ly uẩn, tức có đủ loại sai thất. Từ nơi đây, có thể minh hiển mà thấy ra bọn họ muốn là điều hòa các bộ phái trong vấn đề mâu thuẫn này. Các bộ phái trên bề mặt phản đối họ, mà bề trong đã thái nạp rồi. Như Đại Chúng bộ nói “Căn Bản Thức” Hóa Địa bộ nói “Cùng Sanh Tử Uẩn, Hữu bộ “Đồng Tùy Đắc v.v. đều không phải là tên khác của Bổ Đặc Ca La sao? Như thuật như trên chủ trương là từ tự chính bọn họ “Tam Di Để Bộ Luận” mà nhìn ra, và lại thêm từ các bộ phái khác trong sự phê phán đối với bọn họ. Còn có thể coi ra thuyết của họ không phải chỉ nói không, mà là có ý nghĩa thật tế nữa. Tỷ như “Thành Thực Luận” quyển ba của “ Vô Ngã Phẩm thứ 343, “Hữu ngã vô ngã phẩm thứ 35”, chủ trương của phản đối hữu ngã và “Đại Tỳ Bà Sa Luận”, “Cụ Xá Luận” đều có ghi. Đặc biệt là “Cụ Xá Luận” còn đơn độc có một “phá ngã chấp phẩm” (bản văn không có phẩm này, chuyên phê phán Độc Tử và ngoại đạo thuyết hữu ngã). Từ phê phán có thể thấy ra Độc Tử chủ trương, hữu ngã là có một số thực dụng ý vị:
- Người ta nhận thức hoạt động, như cảm giác, tư khảo v.v. tối hậu phải có thống giác lên tác dụng thống nhất, cái thống nhất tác dụng do ai lại chủ trì vậy?
- Người ta có ký ức của tác dụng, cái này cũng cần có chủ thể của bảo tồn ký ức, nếu không, thì ký ức không có thể.
- Người ta có hành vi, có tốt có xấu, và đều phải đối với người khác phát sinh tác dụng. Cho nên mỗi cá nhân phải nên phụ trách đối với hành vi của mình. Người tin tưởng luân hồi, còn càng đem loại hành vi khuếch đại đến kiếp sau. Cái này cũng nên có cái chủ thể.
- Tại trên thực tiễn tôn giáo, tức tại trong thực tế của tu đạo, nên khiến tất cả sự tích lũy của đạo hạnh hồ đắc thiện quả, và cũng nên có cái chủ thể.
- Tại trong kinh điển Phật giáo thường liên quan nơi lập thuyết của ngã, căn cứ những sự thật này, không thừa nhận hữu ngã, thì nhất thiết nói không thông. Những cái này là từ nơi người khác phê phán thấy ra Độc Tử, sở dĩ chủ trương hữu ngã là dụng ý của thực tế. Độc Tử Bộ đối với ý kiến phê bình, cũng có phản bác qua.
Lúc đương thời sự tranh luận của các phái đều lấy Phật thuyết làm căn cứ. Độc Tử tại trong “Tam Di Để Bộ Luận” và “Tam Pháp Độ Luận” cũng đã đem Phật thuyết xác cập đến chỗ hữu ngã thêm sự tổng hợp, tức còn gọi là ba loại [Giả Thi Thiết Danh].
- Thọ Thi Thiết (cũng dịch là “Y Giả”
- Quá Khứ Thi Thiết (cũng dịch là “Độ Giả”
- Diệt Thi Thiết (cũng dịch là “Diệt Giả”
Thọ Thi Thiết, thọ chỉ chấp thọ, chủ yếu nói đối với sắc uẩn. Sắc uẩn phạm vi rộng lớn, bao quát sơn hà đại địa, thân người v.v.
Sơn hà đại địa vô chấp thọ, phi ngã, nhơn thân (thân người) hữu chấp thọ. Thi Thiết là ngã, quá khứ thi thiết như Phật có khi nói Kim Ngã (Phật tự xưng) tức quá khứ Đảnh Sanh Vương. Ở đây Phật cũng giả thiết là ngã. Diệt thi thiết, diệt chỉ niết bàn. Như Phật lúc giảng hai loại niết bàn, dùng ngã làm tự thể để thêm sự phân biệt. Độc Tử đem ba loại này quy nạp làm Phật nói ngã sở thị thiết của một số danh xưng. Hữu Ngã pháp mới có thể có thi thiết.
Cho nên nó không đáng là giả. Các bộ phái khác đều không minh bạch thiết thực công khai chủ trương hữu ngã như vậy. Chỉ là từ tâm pháp dùng bất đồng danh tự để nói rồi đến sau này. Kinh Lượng Bộ (thuyết chuyển bộ) thì theo với Độc Tử bộ minh bạch thừa nhận hữu ngã rồi.
Độc Tử Bộ chủ trương hữu ngã, cùng với thuyết nghiệp lực của bọn họ có quan hệ. Bởi vì tức nhiên thừa nhận có nghiệp báo luân hồi có quá hiện vị tam thế, thì cũng nên có một sinh mệnh chủ thể Bổ Đặc Ca La. Độc Tử là làm sao giải thích nghiệp lực? Bọn họ nhận là nghiệp lực là món vật có tính vật chất, cách nói này đặc biệt chĩa mũi nhọn đối với Hữu Bộ v.v. đem nghiệp lực quy về nơi “Tư” tức tác dụng của ý chí, sở dĩ gọi nghiệp (hành động) không phải chỉ hành động bản thân, mà chỉ sự phát động hành động nơi ý chí, động tác, ngữ ngôn v.v. Các biểu hiện này, sưng làm “Nghiệp Đạo” và sưng làm “Biểu Nghiệp” nghiệp đạo.
Biểu nghiệp tức nhiên không phải là nghiệp chân chính, do vậy mà không thể đối với nó làm phán đoán Thiện, Ác là vô ký tính. Độc Tử Bộ không xem như vậy. Cho rằng thân ngữ biểu nghiệp cũng có thiện ác. Đây nói rõ, nghiệp cũng không hoàn toàn thuộc phương tiện tâm lý. Mà là cụ hữu tính vật chất rồi. Thứ nữa, quan hệ với khu vực của luân hồi, một số chỉ nói ngũ đạo. Độc Tử thì nói lục đạo. Sau này còn giảng thành bảy đạo, hai đạo tăng thêm là 1) ATuLa, một khác là “Trung Hữu”, ý nghĩa ATuLa là phi thiên, là nói nó có năng lực như trời, nhưng không bằng với trời. Nó nguyên là thần trong thần thoại cổ của Ấn Độ. Người xưa vô tri đối với hiện tượng nhật nguyệt thực, nói thành là ATuLa đi bắt nhật nguyệt đem đi che đậy lại. Người xưa coi năng lực của nó rất lớn, nhưng tính rất nhiều nộ, áo đấu.
Cho nên gọi phi thiên (không phải trời). Sau này Phật giáo đem nó liệt vào một đạo luân hồi, chia ở dưới loại thiện của quả báo. Theo cách nói của họ . Thiên thuộc Thượng Thiên, Nhơn thuộc Trung Thiện. ATuLa cũng là một giống Thiện. Nhưng động cơ bất hảo, hoặc sánh với sân, hoặc xuất nơi Siểm (dùng ngôn ngữ dụ người) không thể cùng thiện của nhân thiên so sánh được, mà thuộc đạo thứ sáu. Độc Tử sở dĩ đem ATuLa khuếch đại làm một đạo, ít nhiều phản ảnh lúc bấy giờ tình trạng xã hội hài hòa. “Chánh pháp niệm xứ kinh” nói ATuLa ở trong biển, phàm có bốn tầng (biển cũng chia tầng, phương hướng khác trời, trời là hướng lên, biển là hướng xuống). Độc Tử bộ có một bộ phận ở Tây Bộ. Ấn Độ ở đó gần biển, thương nghiệp phồn vinh, nhưng đối hiện tượng biển vô tri, nảy sinh ra tâm lý thần bí. Cho đến chế tạo ra thuyết bốn tầng biển, và còn đem ATuLa để vào trong ấy, có thể thấy họ đối biển rất coi trọng. Ngoài ra Độc Tử còn chủ trương “Trung Hữu” làm một đạo, bởi vì tại trong luân hồi, ly khai này đến đường kia ở đoạn giữa, còn nên có một con đường trung gian quá độ, cái chủ thể luân hồi này, còn là thuộc nơi ngũ uẩn, không rời khỏi được nhân tố của vật chất. Do vậy, bọn họ đem sinh mệnh coi thành là tính vật chất của một cái ý nghĩa này. Bất luận là từ lý luận của nghiệp hoặc giả từ lý luận các đạo luân hồi đều minh hiển coi ra được.
Học thuyết của Độc Tử phản ảnh ra lúc đương thời ủng hộ bọn họ là ý thức của tầng lớp thứ ba. Sở dĩ gọi là ý thức của tầng lớp thứ ba là trưởng giả, phú thương tức là:
- Dỉ cá nhân làm trung tâm
- Coi nặng lợi ích vật chất
Do nơi thương nghiệp phải mạo phong hiểm, khó có chắc chắn. Cho nên mười phần tin tưởng vận mệnh. Những tư tưởng này, đúng là phản ảnh trong chủ trương của Độc Tử, cũng đồng thời lúc này tại vùng Phật giáo lưu này, đồng thời cũng đã lưu hành Sina giáo. Sina giáo cũng được thương nhân chi trì, giữa Độc Tử cùng Kỳ Na giáo không thể không có những nơi ảnh hưởng với nhau. Kỳ Na giáo giảng bảy đế, chủ yếu là “Mệnh” “Phi Mệnh”. Tại trong “Phi Mệnh” tức có Bổ Đặc Ca La. Theo lý luận bọn họ giảng. Bổ Đặc Ca La là tính của vật chất, nhưng mà là vật phát động hiện tượng sinh mệnh. Sinh mệnh mà thành, toàn nhờ Bổ Đặc Ca La phát động như là tư tưởng, nói chuyện hô hấp v.v. các hiện tượng phát sinh nơi con người, tức tại nơi có phát động của Bổ Đặc Ca La. Như vậy “phi mệnh” của Bổ Đặc Ca La cùng với “Mệnh” của nhân ngả kết hợp mật thiết dị thường, tức tiến thêm một bước là đem sinh mệnh giải thích làm vật chất tính. Độc Tử đem Bổ Đặc Ca La là coi thành sinh mệnh của ngã. Có mang ý nghĩa vật chất tính đây cùng thuyết Kỳ Na giáo tương tự, tế mật suy cứu, là có khả năng ảnh hưởng nhau.
“Dị Bộ Tông Luân Luận” liệt cử trong chủ trương của Độc Tử có một điều nói: Chư pháp không hoàn toàn là diệt, có số pháp là tam trụ. Một nhóm giảng Satna diệt là liên hệ tâm của Satna diệt giảng. Bởi vì vật khác không phải là chỉ một thoáng tức ra sinh diệt. Độc Tử cho rằng, nhất khởi nhất diệt của tâm là Satna, chư pháp ngoài tâm như ánh đèn, tiếng chuông v.v. cũng là Satna diệt. Nhưng mà một số pháp khác, như Đại địa, Sơn hà, Thảo mộc v.v. thì là tạm trụ, tuy nhiên tại trong quá trình thời gian cũng có biến hóa, nhưng nội trong thời kỳ là tương tục.
Những nghị luận này, cùng các phái dĩ sắc tâm đồng khởi phục giảng chư hạnh Satna diệt bất đồng. Độc Tử cho rằng, tâm pháp Satna ngoài cái này ra tấc đại đa số tam trụ, như thế đem sắc tâm phân khai, sắc có thể ở ngoài tâm độc lập tồn tại. Tức có một số khuynh hướng của duy vật, với một lý luận này, sau này lại đến chánh lượng bộ. Càng là cộng thêm sự phát triển rộng lớn, từ đây mà cùng cũng cố trận địa của duy tâm. Đặc biệt là trong đại thừa Duy Thức Luận, không thể không xảy ra sự đấu tranh bén nhọn. Huyền Trang, khi ở Ấn Độ đã còn gặp đến quá nhiều lần loại tập hợp đấu tranh này, phát biểu theo cách nhìn của chính mình. Đây cũng là một công án nặng trong Phật Giáo lưu lại, khi nói chánh lượng bộ thì nói tường tận.

Bài Viết Liên Quan
Bài Pháp Số 10: Đại Bồ Tát Duy Ma Cật Khai Thị Cho Bồ Tát Di Lặc
Bồ Tát Di Lặc (Maitreya) là vị Bồ Tát của Từ Bi, được Phật Thích Ca thọ ký sẽ trở...
Bài 13: Ác Trận Trấn Yếm Việt Nam
Từ đời vua Lý đến Trần Qua kỳ Trịnh Nguyễn tranh phân hai đàng Trận đồ trấn yểm Nam bang...
Bài 99: Kiếm Rồng Cứu Nguy Nước Nhà
Năm Thìn bão lụt thiên tai Nước dâng khắp chốn bi ai cõi lòng Lão ngồi mòn mỏi đợi trông...
Sông Tô Lịch do ai trấn yểm?
Nhiều độc giả có cùng thắc mắc phải chăng sự kiện sông Tô Lịch bị trấn yểm là do Cao...
TẬP SAN MẬT PHƯỚC SỐ 6
Độc giả nhấn vào nút bên dưới để xem bản đầy đủ của Tập San Mật Phước Số 6. Xuất...
Bài 122: Giữ mình đừng giận
Tâm người như nước hồ thuLặng trong mới thấy mây ru bóng mìnhMột câu gió thoảng vô tìnhCũng khơi lay...
Bài 21: Đôi Lời Cùng Bậc Anh Hào
Lão nay bảy chục tuổi trời Hồi âm thơ tín chẳng thời được nhanh Lão mong gieo được duyên lành...
Bài 97: Hạnh Khiêm Cung
Khiêm cung có phải lạ đâu! Nhưng làm sao hiểu cho sâu chữ này? Khiêm cung phải hiểu cho ngay...