VI. PHÉP HỘ MA
Hộ ma, Trung Hoa dịch là hỏa thiêu, hỏa tế để chỉ cho cảnh lửa cháy lẫy lừng hay sự cúng tế bằng lửa. Hộ ma còn có nghĩa là thiêu ám để chỉ cho lửa trí tuệ thiêu đốt nghiệp. Về phép hộ ma, trong Du–già[1] Hộ Ma Nghi Quỹ[2] nói: “Tức tai Kiết Phật ấn.[3] Tăng ích cờ xí báu.[4] Hàng phục Kim Cang nộ.[5] Câu triệu Kim Cang câu.[6] Thỉnh mời liền ứng nhau. Kính ái liên hoa bộ.[7] Năm Du-già như thế nên làm phép Hộ ma.”
Có hai loại Hộ ma: ngoại Hộ ma và nội Hộ ma.
– Ngoại Hộ ma là dùng phép hỏa tế cúng dường tất cả thân Phổ Môn[8] để tăng ích thế lực không thể nghĩ bàn của mật chú và khiến cho chân ngôn mau được thành tựu.
– Nội Hộ ma là dùng lửa trí tuệ đốt sạch cỏ rác phiền não bên trong, cần phải lấy Bồ Đề tâm[9] làm động lực căn bản.
Trong “Kiến Lập Hộ Ma Nghi Quỹ” có nói: “Vì nghiệp chướng che lấp, quán nơi môn chữ A,[10] dùng trí tuệ mãnh liệt, tưởng chung quanh thành lửa, như kiếp hỏa lẫy lừng, thiêu đốt nghiệp phiền não, và củi gỗ vô minh, không còn sót vật chi, tuôn chảy bạch cam lồ,[11] tươi mát mười phương cõi, những nhiệt não[12] chúng sanh, giúp lớn mầm Bồ Đề, thứ lớp sanh các chữ, đây chính là pháp thân, bí mật nội hộ ma.”
Thật sự pháp ngoại hộ ma chỉ có tác dụng diệt tội sanh phước trong sanh tử giới,[13] phép nội hộ ma thì có công năng dứt trừ phiền não khiến cho siêu thoát luân hồi.
Nếu bậc Chơn Ngôn hành giả chỉ làm phép ngoại hộ ma theo thế đế[14] mà không hiểu ý nghĩa về nội hộ ma thì cũng đồng với hạng người thờ cúng lửa mà thôi.
Tóm lại trên hết thảy Chư Tôn Bồ Tát, Mật Giáo thờ Pháp Thân của Đức Thích Tôn hay còn gọi là Đại Nhựt Như Lai, Phạn ngữ là Tỳ–lô–giá–na Phật (MAHAVAIROCANA). Tổ chức của giáo đoàn Mật Giáo cũng chia thành cấp bậc để tôn xưng lẫn nhau. Nhưng các thuật bí truyền đều đóng cửa cài then, giấu kín cho những người ngoại đạo không biết đến.
Sở dĩ như thế là vì Mật Tông là “tâm pháp bí truyền” hay còn được gọi là “mật pháp tâm truyền” vì đây là một pháp môn bí nhiệm, không được truyền ra quảng đại quần chúng và khi truyền pháp này các hành giả chỉ dùng lối khẩu khẩu tương truyền.
Xưa nay các tâm pháp thường là bí pháp và ít khi được phổ truyền. Vì sao tâm pháp hay mật pháp lại phải bí truyền?
Ngày xưa, vào học đạo, khi một vị Thầy hay Tổ muốn truyền Tâm pháp cho đệ tử, thường vị ấy phải theo dõi học trò, xem trong số các đệ tử có người nào hạnh tốt, nghiệp trần nhẹ rồi và có tâm trí quyết cầu giải thoát, dứt bỏ trần ai, thì sẽ gọi riêng đứa đó lại, dùng lối khẩu khẩu tương truyền để dạy riêng cho nó, trao cho nó cái bí pháp quý giá để nó tu luyện cầu giải thoát.
Mục đích lựa chọn như vậy là vì tâm pháp là báu vật, nếu trao nhằm kẻ không xứng đáng hoặc không biết giữ gìn, chẳng khác nào vứt báu vật xuống sông biển mà thôi.
Nếu hành giả thọ tâm pháp mà nghiệp còn nặng, trần còn mê, tánh còn nặng trược, tâm chưa muốn vứt bỏ, ý chưa quyết giải thoát, thì nhận được pháp báu phỏng có ích gì? Chỉ khiến phá pháp hư hoại đi thôi! Dù nếu không giữ tánh cách bí truyền, những nghi thức hành lễ của Mật Giáo cũng mang nhiều bí ẩn phức tạp, nếu có phô bày ra cho thiên hạ trông thấy thật đấy, nhưng người ngoài cũng khó mà lường được ý nghĩa trình bày.
Vì các lý do trên, tông này mới có danh gọi là “Bí Mật Phật Giáo” gọi tắt là Mật Giáo. Mật Tông còn có một danh gọi khác là Chơn Ngôn Tông vì là biểu thị cho con đường của nguyên ngôn, ở đây thay vì ngôn ngữ nói mà lại chính là con người nói. Con người nói bằng nguyên ngôn, nghĩa là bằng MANTRA hay là chú, YANTRA hay là Phù, MANDALA hay là Đàn Pháp và MAITHUNA hay là Tình Thương.
[1] Du–già: Tiếng Phạn “yoga”, âm Hán Việt là “du–già”, nghĩa gốc là chỉ cho cái ách, hay sự cột trói. Du-già là cách tu khổ hạnh xác thịt, để làm cho tinh thần hoàn toàn trong sạch. Ngoài ra Du–già còn có nghĩa hòa nhập, kết hợp. Đây là phương pháp tu hành của người Ấn Độ từ nhiều ngàn năm trước thời Đức Thích Ca ra đời, với mục đích làm cho cái tiểu ngã của cá nhân hòa nhập vào cái đại ngã của vũ trụ.
[2] Du–già Hộ Ma Nghi Quỹ: Những cách thức làm phép Du–già Hộ ma.
[3] Tức Tai Kiết Phật Ấn: Tức Tai (hay còn gọi Tiêu Tai) là phép giúp tai ách dần tiêu trừ, dứt được phiền não tham, sân, si. Thực hiện phép Tức Tai, ngoài đàn tràng, pháp khí thì còn kiết ấn, thệ nguyện tu hành theo các hạnh của chư Phật, Bồ Tát.
[4] Tăng ích cờ xí báu: Phép Tăng Ích giúp gia tăng những lợi ích trong đời sống như tuổi thọ, sức khỏe, sự thành đạt, tăng trưởng công đức. Làm phép Tăng ích, đàn tràng sắp xếp như dựng phướn báu.
[5] Hàng phục Kim Cang nộ: Phép Hàng Phục (Giáng phục, Điều phục) dùng để trừ tà, diệt ma, phá vỡ vô minh, những thế lực xấu ác vô hình gây tổn hại cho con người. Thực hiện phép này thì pháp đàn có vẽ những hình tướng Phẫn Nộ Vương, Hóa Thân phẫn nộ của Kim Cang Tát Đỏa Bồ Tát và các quyến thuộc, hộ pháp.
[6] Câu triệu Kim Cang câu: Phép Câu Triệu giúp tập trung những năng lực tinh tế của vũ trụ, từ các cảnh giới cao diệu khiến các điều thiện lành sanh khởi. Thực hiện phép Câu Triệu, trong đàn Hộ ma có vẽ Kim
Cang Câu (móc câu Kim Cang), người tu quán tưởng dùng móc câu Kim Cang để kêu gọi những quyền năng từ chư Thiên.
[7] Kính ái Liên Hoa bộ: Tu luyện Phép Kính Ái để được người, trời, quỷ thần kính trọng và quý mến, cầu được chư Phật, Bồ Tát hộ trì. Trong phép kính ái, đàn Hộ ma có để ảnh tượng Phật A Di Đà và các quyến thuộc của Liên Hoa bộ.
[8] Thân Phổ Môn: Còn gọi là thân Pháp Giới, thân Kim Cang Giới. Vì muốn tiếp độ chúng sanh, Đức Đại Nhật dùng thần lực gia trì, hiện tướng thân khẩu ý khắp trong đường sanh tử để dẫn dắt những kẻ hữu duyên. Tất cả MANDALA đều là một thân không sai khác, là một thể của Phật Đại Nhật. Đó chính là thân Phổ Môn.
[9] Bồ Đề tâm: Là tâm hướng về sự giác ngộ.
[10] Quán nơi môn chữ A: Đại Nhựt Kinh Sớ giảng rằng chữ A là chủng tử của tâm Bồ Đề, người trì tụng chữ A đều có tâm Bồ Đề, và nhờ đó đạt đến Bồ Đề cao tột. Quán nơi môn chữ A có nghĩa là tập trung quán tưởng vào chủng tử tự A để đạt giác ngộ.
[11] Bạch cam lồ: Ý chỉ Phật pháp trong sáng, tốt lành, có thể rửa sạch phiền não, nuôi dưỡng thân tâm, tăng trưởng trí huệ.
[12] Nhiệt não: Những sự khổ não dày vò thân tâm, khiến chúng sanh bức rức, bồn chồn, đau đớn như bị nung nấu.
[13] Sanh tử giới: Vòng sanh tử, lục đạo luân hồi.
[14] Thế đế: “Thế” là thế tục, phàm tục, “đế” là chân thật, chân lý. Thế đế (còn gọi là Tục đế) nghĩa là chân lý của thế gian.
Bài Viết Liên Quan
LINH XĂM ĐỨC THÁNH TRẦN HƯNG ĐẠO – QUẺ SỐ 18
QUẺ SỐ 18 – TRUNG BÌNH TRIỆU Tái ông thất mã. DỊCH NGHĨA Tái ông mất ngựa. TỔNG THI Kỷ...
Bài 25: Kiếm Rồng Uy Chấn Sơn Hà
Có người hỏi lão thế này: “Rồng nào mới được trao tay kiếm Rồng?” Lão xin hồi đáp thật lòng:...
Bài 140: Giữ tâm an
Tu hành chẳng phải ngồi im, Mà tu trong cảnh con tim bẽ bàng Giữa đời khi gặp trái ngang,...
Bài 141: Giữ khẩu
Thói thường trong cõi nhân sinh Đầu đuôi chưa rõ đã rình nói ra Lo đi đồn chuyện người ta...
10. KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA
Trong kho tàng kinh điển Đại thừa, kinh Diệu Pháp Liên Hoa là bộ kinh được truyền bá rất sớm...
Bài 86: Lời mở đầu tập san Mật Phước
LỜI MỞ ĐẦU Thầy Quảng Nghệ 05/10/2023 Thay cho lời nói mở đầu Tập san Mật Phước gửi lời tri...
Xăm Quan Thánh 33
Xăm Quan Thánh 33: TRUNG BÌNH 第三十三号簽 中平不分南北與西東眼底昏昏耳似聾熟讀黃庭經一卷不論貧賤與窮通碧仙注是非不管一在紛紜見如不見聞如不聞 Âm: Bất phân nam bắc dữ tây đông,Nhãn để hôn hôn nhĩ...
4. Phật Giáo Thánh Kinh (Dương Tú Hạc)
Phật Giáo Thánh Kinh, của nữ Phật tử Dương Tú Hạc, là quyển sách đúc kết những tư tưởng cốt...