Đời Đường, Sa-môn Dà-Phạm Đạt-mạ, người xứ Tây Thiên Trúc dịch.
Như thế tôi nghe, một thời, đức Phật Thích-ca Mâu-ni ngự nơi đạo tràng Bảo Trang Nghiêm, trong cung điện của Quán Thế Âm Bồ-tát ở tại non Bổ-đà-lạc-ca, đức Phật ngồi nơi tòa sư tử, tòa này trang nghiêm thuần bằng vô lượng ngọc báu tạp ma-ni, xung quanh treo vây nhiều tràng phan bá bảo.
Khi ấy, đức Như Lai ở trên pháp tòa, sắp muốn diễn nói môn Tổng trì Ðà-ra-ni, có vô lượng số Bồ-tát Ma-ha-tát câu hội. Các vị ấy là: Tổng Trì Vương Bồ-tát, Bảo Vương Bồ-tát, Dược Vương Bồ-tát, Dược Thượng Bồ-tát, Quán Thế Âm Bồ-tát, Đại Thế Chí Bồ-tát, Hoa Nghiêm Bồ-tát, Đại Trang Nghiêm Bồ-tát, Bảo Tạng Bồ-tát, Đức Tạng Bồ-tát, Kim Cang Tạng Bồ-tát, Hư Không Tạng Bồ-tát, Di-lạc Bồ-tát, Phổ Hiền Bồ-tát, Văn-thù-sư-lợi Bồ-tát… Những vị Bồ-tát như thế đều là bậc Quán đảnh đại Pháp vương tử.
Lại có vô lượng vô số đại Thanh văn tăng đều là bậc A-la-hán, tu hạnh Thập địa câu hội. Trong ấy, ngài Ma-ha Ca-diếp làm thượng thủ.
Lại có vô lượng Phạm-ma-la Thiên câu hội. Trong ấy, ngài Thiện Tra Phạm Ma làm thượng thủ.
Lại có vô lượng chư Thiên tử ở cõi trời Dục giới câu hội. Trong ấy, ngài Cù-bà-dà Thiên tử làm thượng thủ.
Lại có vô lượng Hộ thế tứ Thiên vương câu hội. Trong ấy, ngài Đề-đầu-lại-tra làm thượng thủ.
Lại có vô lượng Thiên, Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-dà, Nhơn, Phi Nhơn câu hội. Trong ấy, ngài Thiên Đức đại Long vương làm thượng thủ.
Lại có vô lượng chư Thiên nữ ở cõi trời Dục giới câu hội. Trong ấy, ngài Đồng Mục Thiên nữ làm thượng thủ.
Lại có vô lượng Thần Hư không, Thần Giang hải, Thần Tuyền nguyên, Thần Hà chiểu, Thần Dược thảo, Thần Thọ lâm, Thần xá trạch, Thần cung điện, cùng Thủy thần, Hỏa thần, Địa thần, Phong thần, Thổ thần, Sơn thần, Thạch thần v.v… đều đến tập hội.
Bấy giờ, đức Quán Thế Âm Bồ-tát ở trong đại hội, mật phóng ánh thần thông quang minh, chiếu sáng mười phương sát độ và cõi tam thiên đại thiên thế giới này đều thành sắc vàng. Từ Thiên cung, Long cung cho đến cung điện của các vị tôn thần thảy đều chấn động. Biển cả, sông, nguồn, núi Thiết Vi, núi Tu Di, cùng thổ sơn, hắc sơn, cũng đều rung động dữ dội. Ánh sáng của mặt trời, mặt trăng, tinh tú, châu báu và lửa đều bị ánh kim quang rực rỡ kia lấn át làm cho ẩn mất không hiện.
Lúc đó, ngài Tổng Trì Vương Bồ-tát thấy tướng trạng hy hữu ấy, lấy làm lạ cho là việc chưa từng có, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, cung kính chắp tay, dùng lời kệ hỏi Phật, để biết tướng thần thông kia do ai làm ra, kệ rằng:
Ai thành Chánh giác trong ngày nay?
Khắp phóng ánh sáng như thế này.
Mười phương sát độ thành sắc vàng,
Cả cõi đại thiên cũng như vậy.
Ai được tự tại trong ngày nay?
Phô diễn thần lực ít có này.
Không ngằn cõi Phật đều rung động,
Cung điện Long thần cũng long lay.
Sức thần thông này ai làm ra,
Là ánh quang minh đấng Phật-đà,
Là của Bồ-tát, đại Thanh văn,
Hay trời Đế Thích, cùng Phạm ma?
Nay trong chúng hội đều sanh nghi,
Chẳng biết đây là nhân duyên gì?
Muốn cầu hiểu rõ, tâm thành kính,
Hướng trông về ngôi đại từ bi.
Đức Phật bảo Tổng Trì Vương Bồ-tát:
“Thiện nam tử! Các ông nên biết trong pháp hội này, có vị Bồ-tát Ma-ha-tát, tên là Quán Thế Âm Tự Tại, từ vô lượng kiếp đến nay đã thành tựu tâm đại từ bi, lại khéo tu tập vô lượng Đà-ra-ni môn. Vị Bồ-tát ấy vì muốn làm cho chúng sanh được lợi ích an vui, nên mới mật phóng sức thần thông như thế.”
Đức Như Lai vừa nói lời ấy xong, Quán Thế Âm Bồ-tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa y phục nghiêm chỉnh, chắp tay hướng về Phật mà thưa rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Con có chú Đại Bi tâm Đà-ra-ni, nay xin nói ra, vì muốn cho chúng sanh được an vui, được trừ tất cả bệnh, được sống lâu, được giàu có, được diệt tất cả nghiệp ác tội nặng, được xa lìa chướng nạn, được tăng trưởng tất cả công đức của pháp lành, được thành tựu tất cả các thiện căn, được tiêu tan tất cả sự sợ hãi, được mau đầy đủ tất cả những chỗ mong cầu. Cúi xin Thế Tôn từ bi doãn hứa.”
Đức Phật bảo: “Thiện nam tử! Ông có tâm đại từ bi, muốn nói thần chú để làm lợi ích an vui cho tất cả chúng sanh. Hôm nay chính là lúc hợp thời, vậy ông nên mau nói ra, Như Lai tùy hỷ, chư Phật cũng thế.”
Quán Thế Âm Bồ-tát lại bạch Phật: “Bạch đức Thế Tôn! Con nhớ vô lượng ức kiếp về trước, có Phật ra đời, hiệu là Thiên Quang Vương Tịnh Trụ Như Lai. Đức Phật ấy vì thương nghĩ đến con và tất cả chúng sanh nên nói ra môn Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà-ra-ni. Ngài lại dùng tay sắc vàng xoa nơi đầu con mà bảo: “Thiện nam tử! Ông nên thọ trì tâm chú này, và vì khắp tất cả chúng sanh trong cõi nước ở đời vị lai, mà làm cho họ được sự an vui lớn.”
Lúc đó con mới ở ngôi Sơ địa, vừa nghe xong thần chú này liền chứng vượt lên đệ Bát địa. Bấy giờ con rất vui mừng, liền phát thệ rằng: “Nếu trong đời vị lai, con có thể làm lợi ích an vui cho tất cả chúng sanh với thần chú này, thì xin khiến cho thân con liền sanh ra ngàn tay ngàn mắt.”
Khi tôi phát thệ rồi, thì ngàn tay ngàn mắt đều hiện đủ nơi thân. Lúc ấy, cõi đất mười phương rung động sáu cách, ngàn Đức Phật trong mười phương đều phóng ánh quang minh soi đến thân con, và chiếu sáng khắp mười phương vô biên thế giới. Từ đó về sau, con ở trong vô lượng pháp hội của vô lượng chư Phật, lại được nghe và thọ trì môn Đà-ra-ni này. Mỗi lần nghe xong, con khôn xiết vui mừng, liền được vượt qua sự sanh tử vi tế trong vô số ức kiếp. Và từ ấy đến nay, con vẫn hằng trì tụng chú này, chưa từng quên bỏ. Do sức trì tụng ấy, tùy theo chỗ sanh, con không còn chịu thân bào thai, được hóa sanh nơi hoa sen, thường gặp Phật nghe pháp. Nếu có vị Tỳ-khưu, Tỳ-khưu-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di hay đồng nam, đồng nữ nào, muốn tụng trì chú này, trước tiên phải phát tâm từ bi đối với chúng sanh, và sau đây y theo con mà phát nguyện:
Nam-mô Ðại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con mau biết tất cả pháp.
Nam-mô Ðại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con sớm được mắt trí tuệ.
Nam-mô Ðại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con mau độ các chúng sanh.
Nam-mô Ðại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con sớm được phương tiện khéo.
Nam-mô Ðại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con mau lên thuyền Bát-nhã.
Nam-mô Ðại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con sớm được qua biển khổ.
Nam-mô Ðại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con mau được giới định đạo.
Nam-mô Ðại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con sớm lên non Niết-bàn.
Nam-mô Ðại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con mau về nhà vô vi.
Nam-mô Ðại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con sớm đồng thân pháp tánh.
Nếu con hướng về nơi non đao,
Non đao tức thời liền sụp đổ.
Nếu con hướng về lửa, nước sôi,
Nước sôi, lửa cháy tự khô tắt.
Nếu con hướng về cõi địa ngục,
Ðịa ngục liền mau tự tiêu tan.
Nếu con hướng về loài ngã quỷ,
Ngã quỷ liền được tự no đủ.
Nếu con hướng về chúng Tu-la,
Tu-la tâm ác tự điều phục.
Nếu con hướng về các súc sanh,
Súc sanh tự được trí tuệ lớn.
Khi phát lời nguyện ấy xong, chí tâm xưng danh hiệu của con, lại chuyên niệm danh hiệu Bổn sư con Đức A-di-đà Như Lai, kế đó tiếp tụng Đà-ra-ni thần chú này. Nếu chúng sanh nào, trong một ngày đêm tụng năm biến chú, sẽ diệt trừ được tội nặng trong ngàn muôn ức kiếp sanh tử.”
Quán Thế Âm Bồ-tát lại bạch Phật: “Bạch đức Thế Tôn! Nếu chúng sanh nào trì tụng thần chú Đại Bi mà còn bị đọa vào ba đường ác, con thề không thành Chánh giác. Tụng trì thần chú Đại Bi, nếu không được sanh về cõi Phật, con thề không thành Chánh giác. Tụng trì thần chú Đại Bi, nếu không được vô lượng tam-muội biện tài con thề không thành Chánh giác. Tụng trì thần chú Đại Bi, tất cả sự mong cầu trong đời hiện tại, nếu không được vừa ý, thì chú này không được gọi là Đại Bi Tâm Đà-ra-ni, duy trừ cầu những việc bất thiện, trừ kẻ tâm không chí thành. Nếu các người nữ chán ghét thân nữ, muốn được thân nam, tụng trì thần chú Đại Bi, như không chuyển nữ thành nam, con thề không thành Chánh giác. Như kẻ nào tụng trì chú này, nếu còn sanh chút lòng nghi, tất không được toại nguyện. Nếu chúng sanh nào xâm tổn tài vật, thức ăn uống của thường trụ sẽ mang tội rất nặng, do nghiệp ác ngăn che, giả sử ngàn Đức Phật ra đời cũng không được sám hối, dù có sám hối cũng không trừ diệt. Nếu đã phạm tội ấy, cần phải đối mười phương Ðạo sư sám hối, mới có thể tiêu trừ. Nay do tụng trì thần chú Đại Bi liền được trừ diệt. Tại sao thế? Bởi khi tụng chú Đại Bi tâm Đà-ra-ni, mười phương Ðạo sư đều đến vì làm chứng minh, nên tất cả tội chướng thảy đều tiêu diệt. Chúng sanh nào tụng chú này, tất cả tội thập ác ngũ nghịch, báng pháp, báng người, phá giới, phạm trai, hủy hoại chùa tháp, trộm của tăng-kỳ, làm nhơ phạm hạnh, bao nhiêu tội ác nghiệp nặng như thế đều được tiêu hết, duy trừ một việc: kẻ tụng đối với chú còn sanh lòng nghi. Nếu có sanh tâm ấy, thì tội nhỏ nghiệp nhẹ cũng không được tiêu, huống chi tội nặng! Nhưng tuy không liền diệt được tội nặng, cũng có thể làm nhân Bồ-đề về kiếp xa sau.
Bạch đức Thế Tôn! Nếu các hàng trời, người tụng trì thần chú Đại Bi, thì không bị 15 việc chết xấu, sẽ được 15 chỗ sanh tốt.
–Thế nào là 15 việc chết xấu?
Không bị chết do đói khát khốn khổ.
Không bị chết do gông tù đánh đập.
Không bị chết vì oan gia thù địch.
Không bị chết giữa quân trận chém giết nhau.
Không bị chết do cọp sói cùng ác thú tàn hại.
Không bị chết bởi rắn rít độc cắn.
Không bị chết vì nước trôi lửa cháy.
Không bị chết bởi phạm nhằm thuốc độc.
Không bị chết do loài sâu trùng độc làm hại.
Không bị chết vì điên cuồng mê loạn.
Không bị chết do té cây, té xuống núi.
Không bị chết bởi người ác trù ếm.
Không bị chết bởi tà thần, ác quỷ làm hại.
Không bị chết vì bệnh ác lâm thân.
Không bị chết vì phi mạng tự hại.
Tụng trì thần chú Đại Bi, không bị 15 việc chết xấu như thế.
–Sao gọi là 15 chỗ sanh tốt?
Tùy theo chỗ sanh, thường gặp đấng Quốc vương hiền lành.
Tùy theo chỗ sanh, thường ở cõi nước an lành.
Tùy theo chỗ sanh, thường gặp thời đại tốt,
Tùy theo chỗ sanh, thường gặp bạn lành.
Tùy theo chỗ sanh, thân căn thường được đầy đủ.
Tùy theo chỗ sanh, đạo tâm thuần thục.
Tùy theo chỗ sanh, không phạm cấm giới.
Tùy theo chỗ sanh, thường được quyến thuộc hòa thuận, có ân nghĩa.
Tùy theo chỗ sanh, vật dụng, thức ăn uống thường được đầy đủ.
Tùy theo chỗ sanh, thường được người cung kính giúp đỡ.
Tùy theo chỗ sanh, tiền của châu báu không bị kẻ khác cướp đoạt.
Tùy theo chỗ sanh, những việc mong cầu đều được toại nguyện.
Tùy theo chỗ sanh, Long Thiên, thiện thần thường theo ủng hộ.
Tùy theo chỗ sanh, thường được thấy Phật nghe pháp.
Tùy theo chỗ sanh, khi nghe chánh pháp ngộ giải nghĩa sâu.
Nếu kẻ nào trì tụng chú Đại Bi, sẽ được 15 chỗ sanh tốt như thế! Cho nên tất cả hàng trời, người, đều nên thường tụng trì, chớ sanh lòng biếng trễ.”
Khi đức Quán Thế Âm Bồ-tát nói lời ấy rồi, liền ở trước chúng hội, chắp tay đứng thẳng, đối với chúng sanh khởi lòng từ bi, nở mặt mỉm cười, nói chương cú mầu nhiệm Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà-ra-ni rằng:
Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a rị da bà lô kiết đế thước bát ra da. Bồ đề tát đỏa bà gia. Ma ha tát đỏa bà da. Ma ha ca lô ni ca da. Án. Tát bàn ra phạt duệ. Số đát na đát tả. Nam mô tất kiết lật đỏa y mông a rị da. Bà lô kiết đế thất phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn trì. Hê rị ma ha bàn đa sa mế. Tát bà a tha đậu du bằng. A thệ dựng. Tát bà tát đa na ma bà tát đa. Na ma bà dà. Ma phạt đặc đậu. Đát diệt tha. Án a bà lô hê. Lô ca đế. Ca ra đế. Di hê rị. Ma ha bồ đề tát đỏa. Tát bà tát bà. Ma ra ma ra. Ma hê, ma hê rị đà dựng. Cu lô cu lô, yết mông. Độ lô độ lô phạt xà da đế. Ma ha phạt xà da đế. Đà ra đà ra. Địa rị ni. Thất phật ra da. Giá ra giá ra. Mạ. Mạ phạt ma ra. Mục đế lệ. Y hê di hê. Thất na thất na. A ra sâm phật ra xá lị. Phạt sa phạt sâm. Phật ra xá da. Hô rô hô rô, ma ra. Hô rô hô rô hê lỵ. Ta ra ta ra. Tất rị tất rị. Tô rô tô rô. Bồ đề dạ, bồ đề dạ. Bồ đà dạ, bồ đà dạ. Di đế lỵ dạ. Na ra cẩn trì. Địa rị sắc ni na. Bà dạ ma na. Ta bà ha. Tất đà dạ. Ta bà ha. Ma ha tất đà dạ. Ta bà ha. Tất đà dũ nghệ. Thất bàn ra dạ. Ta bà ha. Na ra cẩn trì. Ta bà ha. Ma ra na ra. Ta bà ha. Tất ra tăng a mục khư da. Ta bà ha. Ta bà ma ha a tất đà dạ. Ta bà ha. Giả kiết a ra tất đà dạ. Ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ. Ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ. Ta bà ha. Ma bà lị thắng yết ra dạ. Ta bà ha.
Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a rị da. Bà lô kiết đế. Thước bàn ra dạ. Ta bà ha. Án, tất diện đô. Mạn đa ra. Bạt đà dạ. Ta bà ha.
Bồ-tát thuyết chú xong, cõi đất sáu phen biến động, trời mưa hoa báu rơi xuống rải rác, mười phương chư Phật thảy đều vui mừng, Thiên ma ngoại đạo sợ dựng lông tóc, tất cả chúng hội đều được quả chứng. Hoặc có vị chứng quả Tu-đà-hoàn, có vị chứng quả Tư-đà-hàm, hoặc có vị chứng quả A-na-hàm, có vị chứng quả A-la-hán, hoặc có vị chứng được Sơ địa, Nhị địa, Tam địa, Tứ địa, Ngũ địa cho đến Thập địa, vô lượng chúng sanh phát lòng Bồ-đề.
Khi ấy Đại Phạm Thiên vương từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa y phục nghiêm chỉnh, chắp tay cung kính bạch với đức Quán Thế Âm Bồ-tát rằng: “Lành thay Đại Sĩ! Từ trước đến nay, tôi đã trải qua vô lượng Phật hội, nghe nhiều pháp yếu, nhiều môn Đà-ra-ni, song chưa từng nghe nói chương cú thần diệu: Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà-ra-ni này. Cúi xin Đại sĩ vì tôi, nói hình trạng tướng mạo của Đà-ra-ni ấy. Tôi và đại chúng đều ưa thích muốn nghe.”
Quán Thế Âm Bồ-tát bảo Phạm vương: “Ông vì phương tiện lợi ích cho tất cả chúng sanh, nên hỏi như thế. Nay ông khéo nghe, tôi sẽ vì các ông mà nói lược qua.
Này Phạm vương! Những tâm đại từ bi, tâm bình đẳng, tâm vô vi, tâm chẳng nhiễm trước, tâm không quán, tâm cung kính, tâm khiêm nhường, tâm không tạp loạn, tâm không chấp giữ, tâm Vô thượng Bồ-đề, nên biết các thứ tâm ấy đều là tướng mạo của môn Đà-ra-ni này. Vậy, ông nên y theo đó mà tu hành.”
Phạm vương thưa: “Tôi và đại chúng hôm nay mới hân hạnh được biết tướng mạo của môn Đà-ra-ni này, từ đây chúng tôi xin thọ trì chẳng dám lãng quên.”
Bồ-tát lại nói tiếp: “Nếu kẻ thiện nam, thiện nữ nào tụng trì thần chú này, phải phát tâm Bồ-đề rộng lớn, thề độ tất cả muôn loài, giữ gìn trai giới, đối với chúng sanh khởi lòng bình đẳng, và thường nên trì tụng chớ cho gián đoạn. Lại nên ở nơi tịnh thất, tắm gội sạch sẽ, mặc y phục sạch, treo phan, đốt đèn, dùng hương hoa, cùng các thứ ăn uống để cúng dường, buộc tâm một chỗ, chớ nghĩ chi khác, y như pháp mà tụng trì. Lúc ấy, sẽ có Nhựt Quang Bồ-tát, Nguyệt Quang Bồ-tát cùng vô lượng Thần tiên đến chứng minh, giúp thêm sự hiệu nghiệm. Bấy giờ ta cũng dùng ngàn mắt chiếu soi, ngàn tay nâng đỡ, khiến cho kẻ ấy từ đó về sau có thể hiểu suốt tất cả sách vở thế gian, thông đạt các điển tịch Vi Đà và tất cả pháp thuật ngoại đạo. Chúng sanh nào tụng trì thần chú này, có thể trị lành tám muôn bốn ngàn thứ bệnh ở thế gian, hàng phục các thiên ma, ngoại đạo, sai khiến được tất cả quỷ thần. Những kẻ tụng kinh tọa thiền ở nơi non sâu, đồng vắng, bị sơn tinh, tạp mị, các quỷ vọng lượng làm não loạn phá hoại, khiến cho tâm không an định, chỉ cần tụng chú này một biến, các quỷ thần ấy thảy đều bị trói. Nếu hành giả có thể tụng trì đúng pháp, khởi lòng thương xót tất cả chúng sanh, lúc ấy ta sẽ sắc cho tất cả Thiện thần, Long vương, Kim Cang Mật Tích thường theo ủng hộ, không rời bên mình, như giữ gìn tròng con mắt hoặc thân mạng của chính họ.”
Tiếp đó, Bồ-tát liền đọc lời kệ sắc lệnh rằng:
Ta sai Mật Tích, Kim Cang Sĩ,
Ô-sô-quân-đồ Ương-câu-thi,
Bát bộ lực sĩ, Thưởng-ca-la,
Thường theo ủng hộ bên hành giả.
Ta sai Ma-hê Na-la-diên,
Kim-tỳ-la-đà Ca-tỳ-la,
Thường theo ủng hộ bên hành giả.
Ta sai Bà-cấp Ta-lâu-la,
Mãn Thiện Xa-bát Chân-đà-la,
Thường theo ủng hộ bên hành giả.
Ta sai Tát-giá Ma-hòa-la,
Cưu-la-đơn-tra Bán-chỉ-la,
Thường theo ủng hộ bên hành giả.
Ta sai Tất-bà-dà-la Vương,
Ưng Đức Tỳ-la Tát-hòa-la,
Thường theo ủng hộ bên hành giả.
Ta sai Phạm Ma Tam-bát-la,
Ngũ Bộ Tịnh Cư Diêm-ma-la,
Thường theo ủng hộ bên hành giả.
Ta sai Thích Vương, Tam Thập Tam,
Đại Biện Công Đức Bà-đát-na,
Thường theo ủng hộ bên hành giả.
Ta sai Đề-đầu-lại-tra Vương,
Các thần Mẫu nữ, chúng Đại Lực,
Thường theo ủng hộ bên hành giả.
Ta sai Tỳ-lâu-lặc-xoa Vương,
Tỳ-lâu-bác-xoa, Tỳ-sa-môn,
Thường theo ủng hộ bên hành giả.
Ta sai Kim Sắc Khổng Tước Vương,
Hai mươi tám bộ Ðại tiên chúng,
Thường theo ủng hộ bên hành giả.
Ta sai Ma-ni Bạt-đà-la,
Táng Chi đại tướng, Phất-la-bà,
Thường theo ủng hộ bên hành giả.
Ta sai Nan-đà, Bạt-nan-đà,
Bà-dà-la Long, Y-bát-la,
Thường theo ủng hộ bên hành giả.
Ta sai Tu-la, Càn-thát-bà,
Ca-lâu, Khẩn-na, Ma-hầu-la,
Thường theo ủng hộ bên hành giả.
Ta sai Thủy, Hỏa, Lôi, Điển thần,
Cưu-bàn-trà vương, Tỳ-xá-xà,
Thường theo ủng hộ bên hành giả.
Các vị thiện thần này cùng thần Long vương, thần Mẫu Nữ đều có 500 Ðại lực Dạ-xoa làm quyến thuộc, thường theo ủng hộ người thọ trì thần chú Đại Bi. Nếu người đó ở nơi núi hoang, đồng vắng, ngủ nghỉ một mình, các vị thiện thần ấy thay phiên nhau canh giữ không cho tai ương, chướng nạn xâm phạm đến thân. Nếu hành giả đi trong núi sâu lạc mất đường về, tụng trì chú này, Thiện thần, Long vương hóa làm người lành chỉ đường dẫn lối. Như hành giả trụ nơi núi rừng, đồng vắng, thiếu thốn nước lửa, Long thần vì ủng hộ, hóa ra nước, lửa.”
Đức Quán Thế Âm Bồ-tát lại vì người tụng chú, nói bài kệ thanh lương tiêu trừ tai họa rằng:
Hành giả đi trong núi đồng vắng,
Gặp những cọp sói, các thú dữ,
Rắn, rít, tinh mị, quỷ vọng lượng.
Tụng tâm chú này khỏi bị hại.
Nếu đi biển cả hoặc sông, hồ,
Những rồng rắn độc, loài Ma-kiệt,
Dạ-xoa, La-sát, cá, rùa lớn,
Nghe tụng chú này tự lánh xa.
Nếu bị quân trận giặc bao vây,
Hoặc gặp người ác đoạt tiền của,
Chí thành xưng tụng chú Đại Bi,
Giặc cướp tự khởi lòng thương xót.
Nếu bị vua quan, quân sĩ bắt,
Gông cùm trói buộc, giam ngục tù,
Chí thành xưng tụng chú Đại Bi,
Vua, quan tự mở lòng ân xá.
Nếu đi vào nhà nuôi sâu độc,
Uống ăn để thuốc muốn hại nhau,
Chí thành xưng tụng chú Đại Bi,
Thuốc độc biến thành nước cam lộ,
Nữ nhơn bị nạn khi sanh sản,
Khổ vì ma quái làm ngăn cản,
Chí thành xưng tụng chú Đại Bi,
Quỷ tà sợ trốn sanh an ổn,
Gặp rồng, dịch quỷ gieo hơi độc,
Nóng bức khổ đau sắp mạng chung,
Chí thành xưng tụng chú Đại Bi,
Bệnh dịch tiêu trừ, mạng trường cữu,
Rồng, quỷ lưu hành bệnh thủng độc,
Ung sang lở lói nhiều khổ đau,
Chí thành xưng tụng chú Đại Bi,
Khạc ra ba lần hơi độc mất.
Chúng sanh đời trược khởi lòng ác,
Trù ếm hại cho thỏa oán thù,
Chí thành xưng tụng chú Đại Bi,
Liền phản trở lại người trù ếm.
Chúng sanh cõi trược đời mạt pháp,
Lửa dâm dục thạnh, tâm điên đảo,
Ngoại tình, xa vợ, bỏ chồng con,
Ngày đêm mãi tưởng điều sai quấy,
Nếu hay xưng tụng chú Đại Bi,
Lửa dục tiêu trừ, tâm tà dứt.
Công lực Đại Bi chỉ lược qua,
Nếu ta nói hết không cùng kiếp!
Khi ấy, Quán Thế Âm Bồ-tát lại bảo Phạm vương rằng:
“Này Phạm vương! Nếu chúng sanh nào muốn tiêu trừ tai nạn ma chướng nên lấy chỉ ngũ sắc xe làm một sợi niệt, trước tiên tụng chú này 5 biến, kế tụng 21 biến, cứ tụng xong mỗi biến lại thắt một gút, rồi đeo nơi cổ hoặc bỏ nơi đãy để trong thân. Tâm chú Đại Bi đây do chín mươi chín ức hằng sa chư Phật đời quá khứ đã nói ra. Các đức Phật ấy vì thương xót muốn cho người tu hành: công đức Lục độ chưa đầy đủ, mau được đầy đủ; mầm Bồ-đề chưa phát, mau được phát sanh; hàng Thanh văn chưa chứng quả, mau được chứng quả; các vị thần tiên trong cõi đại thiên chưa phát lòng Bồ-đề, mau được phát tâm Vô thượng Bồ-đề. Nếu chúng sanh nào chưa được tín căn Đại thừa, do sức oai thần của Đà-ra-ni này, hạt giống Đại thừa tự sanh mầm và tăng trưởng; lại do sức từ bi phương tiện của ta, khiến cho sự mong cầu của họ đều được thành tựu.
Lại nữa, người trì tụng Đà-ra-ni này, khi thốt ra lời nói chi, hoặc thiện hoặc ác, tất cả Thiên ma ngoại đạo, Thiên, Long, Quỷ thần đều nghe thành tiếng pháp âm thanh tịnh, đối với kẻ ấy khởi lòng cung kính, tôn trọng như Phật.
Người nào trì tụng Đà-ra-ni này nên biết người ấy chính là tạng Phật thân, vì chín mươi chín ức hằng hà sa chư Phật đều yêu quý. Nên biết người ấy chính là tạng quang minh, vì ánh sáng của tất cả Như Lai đều chiếu đến nơi mình. Nên biết người ấy chính là tạng từ bi, vì thường dùng Đà-ra-ni cứu độ chúng sanh. Nên biết người ấy chính là tạng diệu pháp, vì nhiếp hết tất cả các môn Đà-ra-ni. Nên biết người ấy chính là tạng thiền định vì trăm ngàn Tam-muội thảy đều hiện tiền. Nên biết người ấy chính là tạng hư không, vì hằng dùng không huệ quán sát chúng sanh. Nên biết người ấy chính là tạng vô úy, vì Thiên, Long, Thiện thần thường theo hộ trì. Nên biết người ấy chính là tạng diệu ngữ, vì tiếng Đà-ra-ni trong miệng tuôn ra bất tuyệt. Nên biết người ấy chính là tạng thường trụ, vì tam tai ác kiếp không thể làm hoại. Nên biết người ấy chính là tạng giải thoát, vì thiên ma ngoại đạo không thể bức não. Nên biết người ấy chính là tạng dược vương, vì thường dùng Đà-ra-ni trị bệnh chúng sanh. Nên biết người ấy chính là tạng thần thông, vì được tự tại dạo chơi nơi mười phương cõi Phật. Công đức người ấy khen ngợi không thể cùng!”
–Này thiện nam tử! Chúng sanh nào nghe danh tự của môn Đà-ra-ni này còn được tiêu diệt tội nặng sanh tử trong vô lượng kiếp, huống chi là tụng trì? Nếu người nào được thần chú này mà tụng trì, phải biết kẻ ấy đã từng cúng dường vô lượng chư Phật, gieo nhiều căn lành. Nếu kẻ nào tụng trì đúng pháp, lại có thể vì chúng sanh dứt trừ sự khổ nạn, nên biết người ấy là bậc có đủ tâm đại bi, không bao lâu nữa sẽ thành Phật. Cho nên, hành giả khi thấy mọi loài, đều nên vì chúng tụng chú này, khiến cho chúng được nghe để cùng gây nhân Bồ-đề, thì sẽ được vô lượng, vô biên công đức.
Nếu kẻ hành trì khéo giữ gìn trai giới, dụng tâm tinh thành, vì tất cả chúng sanh sám hối tội nghiệp đời trước, tự mình cũng sám hối những ác nghiệp đã gây ra từ vô lượng kiếp đến nay, nơi miệng rành rẽ tụng Đà-ra-ni này tiếng tăm liên tiếp không dứt, thì trong đời hiện tại liền chứng được bốn đạo quả của bậc Sa-môn. Nếu là hạng lợi căn, có phương tiện Tuệ quán thì quả vị Thập địa còn chứng được không lấy gì làm khó, huống chi là những phước báo nhỏ nhặt ở thế gian. Những việc như thế, nếu có mong cầu, đều được toại nguyện.
Đức Phật lại gọi ngài A-nan mà bảo:
–Này A-nan! Khi trong một nước có tai nạn nổi lên, nếu muốn được an ổn, vị quốc vương ở xứ ấy phải biết dùng chánh pháp trị dân, có độ lượng khoan hồng, không làm oan uổng trăm họ, tha kẻ tù phạm, và giữ thân tâm tinh tấn đọc tụng chú này. Hành trì như thế luôn bảy ngày đêm, thì trong cõi nước ấy tất cả tai nạn thảy đều tiêu tan, ngũ cốc phong thạnh, dân chúng được an vui.
Lại trong một xứ, nếu gặp những tai ương dồn dập như: bị nước nghịch đem binh xâm lấn, dân tình rối loạn không yên, quan đại thần mưu phản, bệnh dịch lưu hành, mưa nắng trái thời hoặc nhựt, nguyệt sai độ v.v… Muốn diệt các thứ tai nạn ấy, vị quốc vương phải lập đàn tràng, tạo tượng Thiên Nhãn Đại Bi để day mặt về phương Tây, sắm các thứ hương, hoa, tràng phan, bảo cái, hoặc trăm thức ăn uống mà cúng dường, rồi dùng thân tâm tinh tấn, đọc tụng chương cú thần diệu. Hành trì như thế đúng bảy ngày thì nước giặc quy hàng, chánh tình yên ổn, lân bang hòa hảo thương mến lẫn nhau, trong triều từ vương tử cho đến trăm quan đều hết dạ trung thành, nơi cung vi phi tần, thể nữ khởi lòng hiếu kính đối với vua, các Thiên, Long, Quỷ thần đều ủng hộ trong nước khiến cho mưa gió thuận mùa, hoa quả tốt, nhân dân vui đẹp.
Lại nếu trong nhà có những tai nạn như ma quái nổi dậy, quyến thuộc đau nặng, tiền của hao mòn, gia đình rối loạn, người ác gieo tiếng thị phi hoặc vu khống để hãm hại, cho đến trong ngoài lớn nhỏ chẳng hòa thuận nhau. Muốn diệt những tai nạn ấy, gia chủ phải lập đàn tràng, hướng về tượng Thiên Nhãn, chí tâm niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ-tát và tụng Đà-ra-ni này đủ ngàn biến, thì tất cả các việc xấu như trên thảy đều tiêu diệt, gia đình được vĩnh viễn an vui.
Ngài A-nan lại bạch Phật rằng:
–Bạch đức Thế Tôn! Chú này tên gọi là chi? Con nên thọ trì như thế nào?
Đức Phật bảo:
–Thần chú này có những tên như sau:
Quảng Đại Viên Mãn Đà-ra-ni.
Vô Ngại Đại Bi Đà-ra-ni.
Cứu Khổ Đà-ra-ni.
Diên Thọ Đà-ra-ni.
Diệt Ác Thú Đà-ra-ni.
Phá Ác Nghiệp Chướng Đà-ra-ni.
Mãn Nguyện Đà-ra-ni.
Tùy Tâm Tự Tại Đà-ra-ni.
Tốc Siêu Thánh Địa Đà-ra-ni.
Ông nên y như thế mà thọ trì.
Ngài A-nan lại bạch Phật:
–Bạch đức Thế Tôn! Vị Bồ-tát Ma-ha-tát, bộ chủ của thần chú này, tôn hiệu là chi, mà khéo nói môn Đà-ra-ni như thế?
Đức Phật bảo:
–Vị Bồ-tát ấy hiệu là Quán Thế Âm Tự Tại, cũng tên là Nhiên Sách, cũng gọi là Thiên Quang Nhãn.
–Này thiện nam tử! Quán Thế Âm Bồ-tát thần thông oai lực không thể nghĩ bàn, trong vô lượng kiếp về trước đã từng thành Phật hiệu là Chánh Pháp Minh Như Lai. Vì nguyện lực đại bi, vì muốn làm duyên phát khởi cho tất cả các hàng Bồ-tát, vì muốn an vui thành thục cho chúng sanh, ngài mới giáng tích hiện làm Bồ-tát. Vậy ông và đại chúng, các hàng Bồ-tát Ma-ha-tát, Phạm vương, Đế Thích, Long thần đều nên cung kính, chớ sanh lòng khinh mạn xem thường. Nếu tất cả hàng trời, người thường xưng niệm, cúng dường Quán Thế Âm Bồ-tát, sẽ được vô lượng phước, diệt vô lượng tội, khi mạng chung sanh về cõi nước của Phật A-di-đà.
Đức Phật bảo ngài A-nan:
–Thần chú của Quán Thế Âm Bồ-tát nói ra đây, chân thật không dối. Nếu muốn thỉnh Bồ-tát đến, nên tụng chú vào hương chuyết-cụ-la 21 lần rồi đốt lên, Quán Thế Âm Bồ-tát liền đến (chuyết-cụ-la chính là An tức hương).
Đức Phật lại bảo ngài A-Nan:
–Quán Thế Âm Tự Tại Bồ-tát có ngàn tay, mỗi tay đều tiêu biểu cho hành tùy thuận các sự mong cầu của chúng sanh. Đó cũng do tâm Đại bi của vị Đại sĩ ấy hóa hiện.
1. Nếu chúng sanh nào muốn được giàu lớn, có nhiều thứ châu báu, đồ dùng, nên cầu nơi tay cầm châu như ý.
Chân ngôn rằng: Án, phạ nhựt ra, phạ đa ra, hồng phấn tra.
2. Nếu muốn trị các thứ bệnh trên thân, nên cầu nơi tay cầm cành dương liễu.
Chân ngôn rằng: Án tô tất địa, ca rị phạ rị, đa nẫm đa, mục đa duệ, phạ nhựt ra, phạ nhựt ra bạn đà, hạ nẵng hạ nẵng, hồng phấn tra.
3. Nếu muốn trị các chứng bệnh trong bụng, nên cầu nơi tay cầm cái bát báu.
Chân ngôn rằng: Án, chỉ rị chỉ rị, phạ nhựt ra, hồng phấn tra.
4. Nếu muốn trị bệnh mắt mờ không thấy ánh sáng, nên cầu nơi tay cầm châu nhựt tinh ma ni.
Chân ngôn rằng: Án, độ tỉ, ca giả độ tỉ, bát ra phạ rị nảnh, tát phạ hạ.
5. Nếu muốn hàng phục tất cả thiên ma thần, nên cầu nơi tay cầm cây Bạt-chiết-la.
Chân ngôn rằng: Án nễ bệ nễ bệ, nễ bà dã, ma ha thất rị duệ, tát phạ hạ.
6. Nếu muốn hàng phục tất cả oán giặc, nên cầu nơi tay cầm chày Kim cang.
Chân ngôn rằng: Án phạ nhựt ra, chỉ nảnh, bát ra nễ bát đa dã, tát phạ hạ.
7. Nếu muốn trừ tánh ở tất cả chỗ sợ hãi không yên, nên cầu nơi tay thí vô úy.
Chân ngôn rằng: Án, phạ nhựt ra, nẵng dã, hồng phấn tra.
8. Nếu bị các việc khuấy rối, muốn được an ổn, nên cầu nơi tay cầm dây quyên sách.
Chân ngôn rằng: Án chỉ rị lã ra, mô nại ra, hồng phấn tra.
9. Nếu bị bệnh nhiệt độc, muốn được mát mẻ hết bệnh, nên cầu nơi tay cầm châu Nguyệt tinh ma-ni.
Chân ngôn rằng: Án tô tất địa yết rị, tát phạ hạ.
10. Nếu muốn được mau gặp các bạn lành, nên cầu nơi tay cầm tên báu.
Chân ngôn rằng: Án ca mạ lã, tát phạ hạ.
11. Nếu muốn hàng phục tất cả quỷ, thần, vọng, lượng, nên cầu nơi tay cầm gươm báu.
Chân ngôn rằng: Án đế thế, đế nhá, đổ vĩ nảnh, đổ đề bà đà dã, hồng phấn tra.
12. Nếu muốn trừ những chướng nạn ác bên thân, nên cầu nơi tay cầm cây phất trắng.
Chân ngôn rằng: Án bát na di nảnh, bà nga phạ đế, mô hạ dã nhá, nga mô hạ nảnh, tát phạ hạ.
13. Nếu muốn tất cả người trong quyến thuộc được hòa thuận nhau, nên cầu nơi tay cầm cái hồ bình.
Chân ngôn rằng: Án yết lệ, thảm mãn diệm, tát phạ hạ.
14. Nếu muốn xua đuổi loài hổ báo, sài lang và tất cả ác thú, nên cầu nơi tay cầm cái bàng bài.
Chân ngôn rằng: Án dược các sam nẵng, na dã chiến nại ra, đạt nậu bá rị dã, bạt xá bạt xá, tát phạ hạ.
15. Nếu muốn trong tất cả thời, tất cả chỗ, lìa nạn quan quân vời bắt, nên cầu nơi tay cầm cây phủ việt.
Chân ngôn rằng: Án vị ra dã, vị ra dã, tát phạ hạ.
16. Nếu muốn có tôi trai tớ gái để sai khiến, nên cầu nơi tay cầm chiếc vòng ngọc.
Chân ngôn rằng: Án bát na hàm, vị ra dã, tát phạ hạ.
17. Nếu muốn được các thứ công đức, nên cầu nơi tay cầm hoa sen trắng.
Chân ngôn rằng: Án phạ nhựt ra, vị ra dã, tát phạ hạ.
18. Nếu muốn được sanh về mười phương tịnh độ, nên cầu nơi tay cầm hoa sen xanh.
Chân ngôn rằng: Án chỉ rị, phạ nhựt ra, bộ ra bạn đà, hồng phấn tra.
19. Nếu muốn được trí tuệ lớn, nên cầu nơi tay cầm cái gương báu.
Chân ngôn rằng: Án vĩ tát phổ ra, na ra các xoa, phạ nhựt ra, mạn trà lã, hồng phấn tra.
20. Nếu muốn được diện kiến mười phương tất cả chư Phật, nên cầu nơi tay cầm hoa sen tím.
Chân ngôn rằng: Án tát ra tát ra, phạ nhựt ra, hồng phấn tra.
21. Nếu muốn lấy được kho báu ẩn trong lòng đất, nên cầu nơi tay cầm cái bảo kíp.
Chân ngôn rằng: Án phạ nhựt ra, bát thiết ca rị, yết nẵng hàm, ra hồng.
0888459869!
Dạ con cung Kính chân thành cảm ơn Sư Tổ Triệu Phước, Thầy Quảng Nghệ và Bổn Đạo đã cho con nhiều bài học quý giá!.
🙂