CHƯƠNG VI: V – THẤT CU CHI PHẬT MẪU SỞ THUYẾT ĐÀ-LA-NI KINH

Đường Thiên Trúc, Ngài Tam Tạng Pháp Sư Quảng Trí Bất Không phụng chiếu dịch Phạn ra Hán văn.
Tỳ-khưu Thích Viên Đức dịch Hán ra Việt văn.Như thị ngã văn, nhất thời, Bạt-già-phạm, tại danh xưng là Đại Thành, Thệ-đa lâm, Cấp Cô Độc viên, cùng Đại Tỳ-khưu chúng, các chư Bồ-tát và chư Thiên Long Bát Bộ trước sau đoanh vây chung quanh. Nghĩ thương chúng sanh đời vị lai bạc phước, liền nhập Chuẩn-đề Tam-ma-địa, nói quá khứ Thất Cu-chi Phật đã nói Đà-ra-ni rằng: NAM MÔ TÁT ĐA NẪM, TAM MIỆU TAM BỒ ĐỀ CU CHI NẪM, ĐÁT ĐIỆT THA. ÁN, CHIẾT LỆ, CHỦ LỆ, CHUẨN ĐỀ, TA BÀ HA. Nếu có người tu hành chơn ngôn, xuất gia hay tại gia Bồ-tát tụng trì Đà-ra-ni này, mãn chín mươi vạn biến, những tội đã tạo trong vô lượng kiếp như: thập ác, ngũ nghịch, tứ trọng, ngũ vô gián thảy đều tiêu diệt. Sanh ra chỗ nào, thường gặp chư Phật, Bồ-tát, giàu có nhiều của báu, thường được xuất gia. Nếu có tại gia Bồ-tát tu trì giới hạnh kiên cố không lui, tụng Đà-ra-ni này, thường sanh cõi trời, hoặc trong cõi người, thường làm bậc Quốc vương, không đọa ác thú, gần gũi Hiền thánh. Chư Tiên kính ái ủng hộ gia trì, nếu có việc kinh doanh trong đời, không bị các tai hoạnh. Nếu xuất gia Bồ-tát, đầy đủ các cấm giới, ba thời niệm tụng y giáo tu hành. Hiện đời sở cầu xuất thế gian tất địa, định tuệ hiện tiền, chứng địa vị Ba-la-mật viên mãn, mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Nếu tụng mãn một vạn biến tức nơi trong mộng thấy Phật, Bồ-tát, liền thổ ra vật đen (vật đen tiêu biểu cho ác nghiệp, mửa ra là tướng tội diệt phước sanh nên tự thấy trong miệng mửa ra vật đen hoặc cơm đen). Người kia nếu tội rất nặng tụng hai vạn biến, tức trong mộng thấy các Thiền đường, tự, xá; hoặc lên núi cao hoặc thấy trên cây cao (không bị hệ lụy về tội nghiệp, nên nhẹ bước đi lên, thành tựu thiên nhơn, nên thấy Thiền đường, Tự xá). Hoặc nơi trong ao lớn tắm rửa (rửa trừ tội cấu được thân thanh tịnh). Hoặc thấy bay bổng lên hư không (không bị tội nghiệp ràng buộc nên thân khinh cử nhẹ nhàng). Hoặc thấy cùng các Thiên nữ an vui khoái lạc (nghĩa là do sức thiện căn giữ gìn tương ứng nên thấy cùng vui khoái lạc).Hoặc thấy thuyết pháp (được thị giáo lợi hỷ): dạy dỗ lợi ích vui mừng. Hoặc thấy nhổ tóc, cạo tóc (nhổ tóc là phép của Tây Quốc ngoại đạo, nhổ tóc cạo tóc, đều là tiêu biểu đoạn trừ căn gốc, phiền não). Hoặc ăn sữa cơm, uống bạch cam lồ (ăn sữa cơm là thành tựu thế gian phước thiện, uống cam lồ là được pháp vị xuất thế). Hoặc vượt sông lớn, biển lớn (được vượt qua bể khổ). Hoặc thăng lên tòa sư tử (đắc được tòa Pháp Vương). Hoặc thấy cây Bồ-đề (là kiến đạo tướng). Hoặc thừa thuyền (là thừa nương thuyền Bát-nhã, được tướng lên bờ giải thoát).

Kinh Tô-tất-địa nói: Hoặc thấy Sư tử, Voi, Trâu, Nai, Ngỗng v.v… đều là tướng Tất-địa thành tựu. Hoặc thấy Sa-môn (được xa lìa nhiễm ô ở đời mà ra khỏi tam giới). Hoặc thấy cư sĩ lấy áo trắng, áo vàng che đầu (vàng là tiêu biểu cho chánh, trắng là tiêu biểu cho tịnh, lấy bạch tịnh chánh pháp mà phù hộ). Hoặc thấy mặt trời, mặt trăng (tiêu biểu phá vô minh phiền não tối tăm). Hoặc thấy kẻ đồng nam, đồng nữ (không bị tham dục phiền não nhiễm ô). Hoặc trên cây có trái nhũ quả (nhũ nghĩa là trắng, trắng đó là thiện nghiệp, nghĩa là được Thế, Xuất thế gian thiện nghiệp quả báo). Hoặc thấy người hắc trượng phu trong miệng phun ra lửa hừng hẫy, cùng đấu chiến với họ mà được thắng (nghĩa là cùng với sân phiền não ma cùng chiến được thắng). Hoặc thấy trâu nước, ngựa dữ đến chạm húc, người trì tụng hoặc đánh hoặc nạt sợ mà bỏ chạy (nghĩa là si phiền não ma, mình được thắng). Hoặc ăn sữa tươi, cháo, sữa chín, cơm (nghĩa là được thiện vị phước thiện thành tựu). Hoặc thấy Tô-ma-na hoa. Hoặc thấy bậc Quốc vương (được Đại Nhơn hộ niệm, được nghiệp tôn quý thù thắng).

Nếu không thấy những cảnh giới như vậy đó, phải biết người này đời trước đã tạo tội ngũ vô gián, nên trở lại tụng mãn bảy mươi vạn biến, liền thấy cảnh giới như trên, tức biết tội diệt liền thành Tiên hạnh.

Nhiên hậu y pháp họa vẽ bổn tượng (Chuẩn-đề Bổn Tôn Tượng), hoặc ba thời, hoặc bốn thời, hoặc sáu thời, y pháp cúng dường của thế gian, xuất thế gian Tất-địa, cho đến Vô thượng Bồ-đề, tất cả đều được, nếu có tu trì Đà-ra-ni này, phải biết vị lai thành tựu, xứ sở có nạn hay không nạn, Tất-địa chậm mau nên ở nơi tịnh thất, lấy Cù-ma-di thoa đắp một tiểu đàn, tùy sức cúng dường. Lấy kiết giới chơn ngôn, kiết mười phương giới (bốn phương, bốn phương bàn, trên dưới). Lấy một bình nước hương thơm để tại trong đàn, nhất tâm niệm tụng bình kia động chuyển, nên biết chỗ đã làm, việc sở cầu thành tựu, nếu không động chuyển việc kia không thành.

Lại phép nữa: dùng một cái bát sành mới, thoa đắp hương thơm để nơi trong đàn, chuyên tâm niệm tụng, nếu cái bát kia chuyển động, việc tức thành tựu, nếu không động chuyển, việc tức không thành.

Lại phép nữa: muốn biết việc vị lai, trước thoa đắp một đàn nhỏ, khiến một đồng tử có đủ tướng phước đức, tắm rửa sạch sẽ, mặc y phục mới thanh tịnh, dùng Thất Cu-chi chơn ngôn gia trì hương thơm thoa vào tay đồng tử, lại gia trì nơi cành hoa bảy biến, để trong tay đồng tử, khiến đồng tử che mặt đứng nơi trong đàn, lại lấy một cành hoa khác tụng chơn ngôn gia trì một biến đánh lưng tay đồng tử một cái cho đến 21 lần, liền hỏi đồng tử việc lành dữ, đồng tử đều nói.

Lại phép nữa: lấy một cái kính soi sáng để trong đàn, trước tụng chơn ngôn gia trì cành hoa 108 biến, vậy sau lại tụng chơn ngôn 1 biến đánh vào mặt gương một cái, nơi trên mặt gương liền có văn tự hiện nói việc thiện ác.

Lại phép nữa: muốn biết việc lành hay không lành, thành tựu hay không thành tựu. Lấy dầu thơm Tô-ma-na hoa, tụng chơn ngôn gia trì 108 biến, thoa mặt ngón tay cái bên hữu, tụng chơn ngôn âm thanh không đoạn dứt, khiến đồng tử xem trên mặt ngón tay, hiện hình tướng chư Phật, Bồ-tát, hoặc hiện văn tự nói đủ thiện ác.

Lại phép nữa: nếu có người bị quỷ mị làm bệnh, lấy nhánh dương liễu hoặc nắm cỏ tranh, tụng chơn ngôn đập phủi lên thân người bệnh, tức được trừ lành.

Lại phép nữa: nếu người mắc trọng bệnh tụng chơn ngôn 108 biến xưng tên người bệnh, lấy sữa bò tươi hộ ma tức lành bệnh.

Lại phép nữa: nếu có hài nhi khóc dạ đề (khóc ban đêm) khiến đứa gái nhỏ bên mặt se chỉ, tụng chơn ngôn gia trì gút 21 gút, đeo nơi cổ trẻ hài nhi, tức không khóc dạ đề nữa.

Lại phép nữa: trước gia trì nơi bạch giới tử (hạt cải trắng) 108 biến, nhiên hậu lấy giới tử tụng chơn ngôn, một biến ném vào người bị bệnh quỷ mị, mãn 21 biến quỷ mị kia chạy trốn, người bệnh trừ khỏi.

Lại phép nữa: hoặc có bệnh quỷ mị, lấy Cù-ma-di thoa một cái tiểu đàn, lấy than trấu vẽ nơi đất làm thành hình quỷ mị, tụng chơn ngôn lấy thạch lựu làm các roi gậy, quỷ kia khóc la trốn bỏ chạy mà đi.

Lại phép nữa: hoặc người bị quỷ mị làm đau ốm, mà người bệnh ở viễn xứ xa xôi, không thể tự đến được, hoặc người trì tụng không đến nơi bệnh nhơn, lấy nhánh dương liễu hay nhánh đào hoặc cành hoa, gia trì thần chú 108 biến, sai người đem đến chỗ bệnh nhơn đập phủi trên thân bệnh nhơn, hoặc lấy hoa bảo người bệnh ngửi, hoặc lấy hoa đánh bệnh nhơn, quỷ mị tức đi, người bệnh liền khỏi.

Lại phép nữa: nếu bị rắn mổ, hoặc bị quỷ nữ Noa-kiết-nê bắt giữ, đi xung quanh bệnh nhân tụng chơn ngôn, bệnh kia khiến khỏi.

Lại phép nữa: nếu người mắc bệnh ung nhọt sưng v.v… và bị các độc trùng cắn lấy đàn hương nhồi dẻo hòa với đất làm bùn, tụng chơn ngôn bảy biến thoa lên mụt ghẻ tức lành.

Lại phép nữa: nếu người đi đường, tụng chơn ngôn này, không bị giặc cướp làm thương tổn, cũng xa lìa các nạn ác cầm thú.

Lại phép nữa: nếu có sự lý luận tranh tụng, đấu tranh, và đàm luận cầu hơn, tụng chơn ngôn này là thắng mạnh hơn hết.

Lại phép nữa: nếu đi trong sông sâu biển lớn, tụng chơn ngôn này không bị trôi chìm, và trong nuớc có các loài ác long, ma yết, cá sấu, cá mập làm tổn hại.

Lại phép nữa: nếu bị giam cầm tù tội, người ấy trì tụng thần chú Chuẩn-đề này, mau được giải thoát.

Lại phép nữa: nếu trong nước có tật bệnh, mười đêm lấy dầu mè, bột gạo thơm, hòa với bơ, mật, làm phép Hộ ma tức được tai diệt, quốc độ an ninh.

Lại phép nữa: nếu cầu giàu có nhiều của báu, mỗi ngày lấy các món ăn làm phép Hộ ma tức được tiền tài của báu giàu có.

Lại phép nữa: nếu muốn người kính thương, vui mừng ấy, trong chơn ngôn xưng tên người kia tức được hoan hỷ thuận phục.

Lại phép nữa: nếu không có y áo niệm tụng tức được y áo.

Lại phép nữa: trong ý mong cầu niệm tụng đều được như ý.

Lại phép nữa: nếu người thân thể chi tiết đau nhức, gia trì trong tay 21 biến thần chú, xoa bóp chỗ đau tức khỏi.

Lại phép nữa: nếu mắc bệnh sốt rét và đau đầu, niệm thần chú gia trì nơi tay 21 biến xoa bóp cũng được trừ lành.

Lại phép nữa: thoa đắp một đàn nhỏ, lấy một cái bát đồng đựng đầy tro củi thơm thanh tịnh, bảo đồng tử hai tay đè trên bát tro, người trì tụng nên tụng thần chú, sứ giả của Bổn tôn nhập vào thân của đồng tử, bát kia liền chuyển động, tức xuống lời đồng tử, tức tự kiết Tam bộ Tam-muội-gia ấn, tức tụng Tam-bộ chơn ngôn, liền lấy đá mềm trơn, viên phấn đưa qua cho đồng tử, đồng tử tức nơi trên đất, họa vẽ việc quá khứ, vị lai, tốt, xấu, lành, dữ, và thất lạc kinh luận, quên mất nghĩa khó, Ấn chú tức được biết rõ.

Lại phép nữa: hai bên quân địch nhau, viết Đà-ra-ni này trên vỏ cây hoa, treo trên cây sào tre, bảo người tay cầm tụng chơn ngôn, địch kia tức phá tan.

Lại phép nữa: nếu người nữ không có con trai hay con gái, lấy ngưu huỳnh, nơi trên vỏ cây hoa viết thần chú này, khiến đeo không lâu sẽ có con trai hay con gái.

Lại phép nữa: lại có người nữ chồng không kính trọng, lấy một cái bình mới đựng nước đầy, nơi trong bình để đồ thất bảo (vàng, bạc, ngọc, v.v…) và các linh dược, ngũ cốc, bạch giới tử (hạt cải trắng), lấy dây lụa trắng buộc nơi cổ bình, dùng chơn ngôn gia trì 108 biến, bảo người nữ kiết căn bản ấn (ấn Chuẩn-đề) để an trên đỉnh đầu, lấy nước rót tưới vào đỉnh đầu, tức được yêu thương kính trọng, chẳng những kính trọng cũng có con ở trong thai được an ổn.

Lại phép nữa: người hành giả mỗi khi niệm tụng, kiết đại ấn tụng chơn ngôn in tháp, mãn sáu mươi vạn biến việc sở cầu tức được đầy đủ. Quán Tự Tại Bồ-tát, Kim Cang Thủ Bồ-tát, Đa-la Bồ-tát, tức vì hiện thân sở cầu như ý, hoặc làm vua trong cung A-tu-la, hoặc được Bồ-tát địa, hoặc được thuốc trường niên, hoặc được kính ái pháp thành tựu.

Lại phép nữa: nơi Bồ-đề đạo tràng, ở trước Đại Chế-để, tụng Đà-ra-ni này được thấy Thánh Tăng chung nói chuyện, và Tất-địa thành tựu, được chung kia đồng hành, tức đồng bậc Thánh Tăng kia vậy.

Lại phép nữa: nơi trên đỉnh núi cao, niệm tụng một câu-chi biến (100 ức biến) Kim Cang Thủ Bồ-tát tức đem người này, lãnh 560 người đồng vào cung điện A-tu-la, thọ mạng một kiếp, được thấy Đức Di-lạc Bồ-tát, thính văn chánh pháp, nghe pháp rồi chứng được địa vị Bồ-tát không thoái chuyển.

Lại phép nữa: trên núi Tỳ-bổ-la (núi đây ở Ma-kiệt quốc. Lại nói rằng: chỉ có núi cao cũng được). Trước tượng tháp Xá-lợi niệm tụng, tùy sức dùng hương hoa cúng dường, xin vật để nuôi thân mạng, theo tháng ngày mùng một đến ngày rằm, tụng Đà-ra-ni mãn 30 vạn biến, lấy ngày mãn đó, một ngày một đêm không ăn, bội thêm sự cúng dường, đến cuối đêm tức thấy Kim Cang Thủ Bồ-tát, đem người tu hành đến tự trong cung, vì hành giả chỉ bày cửa hang A-tu-la vào trong hang được cam lồ của trời, sống lâu bằng mặt trời, mặt trăng.

Lại phép nữa: nơi Tam đạo Bảo giai, chỗ Bảo tháp từ trên trời xuống. Hành giả xin ăn, nhiễu quanh tụng câu-chi biến, 100 ức biến, tức thấy Vô Năng Thắng Bồ-tát cùng nguyện vì nói diệu pháp, chỉ bày đạo Vô thượng Bồ-đề, hoặc thấy A-lợi để Mẫu, đem người này vào trong cung mình, cho thuốc trường niên, hoàn đồng niên thiếu, đoan chánh đáng mừng. Lại được phục tàng của báu giấu kín, đại nhơn hứa khả, nên rộng làm lợi ích Tam bảo. Được tất cả Bồ-tát an ủy, chỉ bày Chánh đạo cho đến Bồ-đề đạo tràng.

Lại phép nữa: nếu người không có túc căn lành, không có giống Bồ-đề, không tu Bồ-đề hạnh, vừa tụng một biến thì sanh mầm Bồ-đề pháp huống gì thường hay niệm tụng thọ trì.

VI. THẤT CU-CHI ĐỘC BỘ PHÁP
Đời Đường, Tam Tạng Sa-môn THIỆN VÔ UÝ dịch Phạn ra Hán.
Sa-môn HIỂN CHƠN dịch Hán ra Việt.

Tổng nhiếp 25 bộ đại Mạn-đà-la Ấn CHUẨN-ĐỀ BIỆT PHÁP. Trước tay trái, ngón trỏ, ngón áp út vô danh, ngón út để vào lòng bàn tay, kế lấy ngón tay cái bấm trên móng ngón trỏ, ngón út, ngón vô danh. Tay phải cũng làm y như vậy. Hai đầu ngón tay giữa hiệp lại đứng, kế đó tụng chú CHUẤN-ĐỀ 7 biến.

Kiết giới ấn: Tả hữu hai tay để ngón giữa ngón vô danh vào lòng bàn tay, 2 ngón út đứng thẳng, 2 ngón trỏ hiệp nhau đứng, 2 ngón cái đều bấm đốt giữa cùng ngón trỏ, kế tụng chú CHUẨN-ĐỀ 21 biến, tụng chú ÚM XỈ LÂM 21 biến.

Bắt ấn hộ thân: 2 bàn tay chắp lại, 2 ngón trỏ tráo lại 2 đầu ngón trỏ để ra ngoài, 2 ngón cái đều bấm lóng giữa của ngón trỏ, còn ngón giữa, ngón vô danh, ngón út đứng thẳng.

Nếu gặp đạo tặc, bắt ấn này, để trên đầu và chuyển sang 2 vai, xuống ngực đưa lên trán, giữa chân mày, thì đạo tặc chẳng dám xâm phạm.

Bắt ấn trị bệnh: 2 ngón tay trỏ và hai ngón giữa để trong lòng bàn tay tréo lại, hai ngón vô danh, hai ngón út hiệp lại đứng thẳng. Ngón tay cái bấm đốt giữa ngón trỏ.

TỔNG NHIẾP ẤN: 2 tay phải, trái, ngón út, vô danh, tréo để vào lòng bàn tay, 2 ngón giữa đứng thẳng hiệp 2 đầu ngón lại, mở hai ngón trỏ hơi cong cong, 2 ngón cái đè lên ngón vô danh.

Lúc nào triệu thỉnh, cũng bắt y như vậy; nhưng 2 đầu ngón cái để cụng vào nhau, giống hoa đài tọa. Tụng chú CHUẨN-ĐỂ 7 biến, lấy ấn để hai bên vai, lên mặt, giữa khoảng 2 chân mày, lên mái tóc, xuống ngực và tụng chú CHUẨN-ĐỀ 108 lần.

PHÁ THIÊN MA ẤN: Tả hữu 4 ngón, áp trên ngón cái, trong lòng bàn tay, nghi chỗ nào có MA, QUỶ, ĐỘC LONG thì bắt ấn này tụng chú CHUẨN-ĐỂ.

THỈNH QUỶ THẦN ẤN: 2 bàn tay phải trái, dùng ngón giữa áp trên ngón cái, án lên trên cái đàn, các ngón tay còn lại, đều ngay giống như ngà voi đứng, chỉ hơi cong ngón trỏ, ngón út qua lại tụng chú CHUẨN-ĐỂ 7 biến, tất cả quỷ thần đều đến.

Phật dạy: Chú và ấn này có công năng diệt trừ thập ác, ngũ nghịch, tất cả tội nặng, thành tựu tất cả thiện pháp công đức. Ai thực hành theo pháp trì chú này, chẳng riêng gì cho người tại gia hay người xuất gia. Nếu người tại gia còn uống rượu, ăn thịt có vợ con chẳng phân là tịnh, uế chỉ họ y theo pháp ta dạy đâu chẳng kết quả tốt.

Chia Sẻ bài Viết
5 1 vote
Article Rating
Nhận Thông Báo
Thông báo khi
0 Comments
Bình chọn nhiều nhất
Mới nhất Cũ nhất
Inline Feedbacks
Xem tất cả bình luận