CHƯƠNG II: SỰ TRUYỀN THỪA

CHƯƠNG II: SỰ TRUYỀN THỪA

Mật Giáo được thuyết minh do Đức Thích Tôn Như Lai hay Đại Nhựt Như Lai, chuyển danh là Đại Tỳ–lô–giá–na Phật (Phạn ngữ: MAHAVAIROCANA) Pháp thân của Ngài Phổ Hiền Bồ Tát (SAMANTABHADRA), thị giả của Đức Thích Ca Mâu Ni, thì trở thành Kim Cang Thủ Bồ Tát hay Kim Cang Tát Đỏa (VAJRAPANI), thị giả của Đức Đại Nhựt. Pháp thân Phật, Đức Tỳ–lô–giá–na Như Lai, ở tại cõi trời MA HÊ THỦ LA THIÊN, tức Kim Cang Pháp Giới Cung, qua ứng thân của Ngài là Đức Phật Thích Ca ở tại cõi ta bà này, sau khi thành đạo vào ngày thứ bảy, đang lúc thọ hưởng pháp lạc, đã vì Ngài Kim Cang Tát Đỏa và các vị đại Bồ Tát ở mười phương thế giới khác đến tập hội mà xiển dương giáo pháp bí mật. Đó là thời gian khởi nguyên của Tông Chơn Ngôn vậy.[1]

Ngài Kim Cang Bồ Tát đích thân chịu làm lễ “Quán Đảnh” kế thừa pháp mầu nhiệm của Đức Đại Nhựt Như Lai, lãnh thọ lời Phật dạy, đem giáo pháp ra hoằng hóa và kiết tập thành hai bộ kinh: kinh Đại Nhựt và kinh Kim Cang Đảnh, lập thành Thai Tạng Giới MANDALA và Kim Cang Giới MANDALA. Tại sao hai MANDALA này được gọi là Thai Tạng và Kim Cang?

– “Đại Nhựt Kinh Sớ” giải thích: “Ước[2] về Thai Tạng do nhân duyên cha mẹ giao hợp, thần thức mới gá vào trong thai, rồi do gió nghiệp[3] tượng thành, lần lần lớn lên. Đến khi đứa bé được sanh ra thì gân xương, chi tiết đã hoàn thành, các căn đều đầy đủ.[4] Từ đó đứa bé lấy theo tộc tánh cha mẹ. Cũng thế, hành giả y theo “Chơn Ngôn Môn”[5] học tập Đại bi muôn hạnh,[6] tịnh tâm[7] lần lần hiển hiện.

Do tâm Đại bi, những việc làm đều vì kiến lập chúng sanh,[8] khiến cho thành tựu sự vui trong pháp giới vô tận. Rồi từ đó, công quả viên mãn, lên ngôi Vô Thượng Bồ Đề, được vào dòng giống của Như Lai. Cho nên Đại bi Thai Tạng là ước theo dụ[9] mà đặt tên. Đó là y theo thánh thai bi trí của chư Phật vào nơi đạo tràng tam mật tương ứng, nương phương tiện khéo để thành tựu chủng tử Bản giác[10] của mình và tất cả chúng sanh vậy.

– Còn “Kim Cang Đảnh Sớ” có nói: “Kim Cang bao gồm hai ý nghĩa “bền chắc” và “năng dụng[11] cứng bén.” Bền chắc nên không thể phá hoại, cứng bén nên có thể phá hoại các vật khác.

Nói “bền chắc” là ví cho chân lý bí mật chẳng thể nghĩ bàn của thật tướng,[12] luôn luôn vẫn thường còn, không thể phá hoại. “Năng dụng cứng bén” là dụ cho trí dụng của Như Lai có công năng dẹp phá hết hoặc chướng,[13] làm hiện rõ chân lý thật tướng. Lại theo thế gian, Kim Cang có ý nghĩa không thể phá hoại, chất báu trong các thứ báu và là vật thù thắng[14] trong các chiến cụ.[15] Đây là tiêu biểu cho Pháp Thân. Nói không thể phá hoại là tiêu biểu cho Pháp Thân của tất cả Như Lai: không sanh, không diệt, không trước, không sau, bền bỉ thường còn không hư hoại. Nói chất báu trong các thứ báu là tiêu biểu cho thật tướng “Trung Đạo” đầy đủ hằng sa công đức. Nói vật thù thắng trong các chiến cụ là tiêu biểu cho lý “Đệ nhất Nghĩa Không,”[16] tất cả phiền não không thể đối địch. Đạo lý ấy như thế, không phải Trời, Người, hay chư Phật tạo tác ra được, nên gọi là Kim Cang.

Ngài Kim Cang Bồ Tát đã viết hai quyển kinh Đại Nhựt và Kim Cang Đảnh, mỗi bộ có khoảng mười vạn bài tụng. Ngài lưu pháp lại trong một cái tháp sắt được gọi là “Nam Thiên Thiết Tháp.”[17] Về sau, Ngài Long Thọ Bồ Tát khai tháp sắt Nam Thiên này, nhờ thần lực gia trì, chính Ngài thấy Ngài Kim Cang Tát Đỏa mật truyền cho Đại Pháp[18] và chú phúc[19] lại hai bộ kinh Đại Nhựt và Kim Cang.

Ngài Long Thọ Bồ Tát (NAGARJONA 150–250 D.L) là người mạn Nam Ấn Độ, cực thông minh đỉnh ngộ. Ông là bậc thầy tổ của tám tông phái Đại Thừa Phật Giáo, ngoài ra còn quán triệt đạo lý của mỗi tôn giáo khác trên đất Ấn lúc bấy giờ. Lập trường thuyết giáo của Ngài vững chắc cho đến nỗi không có một học phái Đại Thừa nào sau Ngài vượt qua nổi khi giải thích về những giáo lý căn bản của Phật dạy. Mật Tông Phật Giáo cũng như các tông phái Đại Thừa khác đều đặt cơ sở trên lập trường Không Lý[20] của Ngài (Trung Quán). Ngài được so sánh như là Phật Thích Ca tái thế. Ngài Long Thọ về sau truyền pháp này cho Ngài Long Trí, là một cao tăng tại viện Đại học NALANDA.

Đại học đường NALANDA là trường Phật Giáo lớn nhất ở Ấn Độ. Nơi đây rèn đúc các vị cao tăng Mật Giáo và các tông phái Đại Thừa khác. Chư vị Tổ Sư nối nhau mà truyền đạo phần nhiều đều dạy học tại trường ấy. Các ngài Vô Trước, Thế Thân đều từng là giáo sư tại viện đại học đầu tiên này của Phật Giáo.  Giới Hiền Luận Sư cũng đã nối tiếp làm Thượng Tọa tại đây. Lúc ông đã trên trăm tuổi, Huyền Trang ở Trung Quốc sang vào năm 633, và đã thọ pháp với ông. Các cao tăng hoằng truyền Mật Pháp ở các nước khác sau này đều xuất thân từ đây.

Ngài Long Trí sau khi thọ pháp với ngài Long Thọ, đã truyền pháp và giáo hóa các nước miền Nam Thiên Trúc và Tích Lan. Ngài Long Trí đã thọ hơn bảy trăm tuổi.

Mật Giáo sau đó đã sớm được phổ biến về hướng Bắc để sang Tây Tạng, Trung Hoa và Nhật Bản; về hướng Nam để qua mấy xứ Tích Lan, Miến Điện, Nam Dương, Cao Miên, Lào… để trở thành hai ngành Mật Giáo chính: Mật Tông Nam Tông và Mật Tông Bắc Tông.


[1] Đoạn này hơi khó hiểu vì quá cô đọng. Chỉ cần tạm hiểu đại khái là: Đức Đại Nhựt Như Lai là giáo chủ của Mật Giáo và Ngài đã truyền dạy giáo pháp bí mật cho thị giả của Ngài là Bồ Tát Kim Cang Tát Đỏa.

Kinh điển Phật Giáo đời sau lại ghi thêm rằng: Trong lúc Phật Thích Ca thiền định thọ hưởng pháp lạc ở những ngày đầu tiên vừa giác ngộ, thì Pháp Thân Phật (là Đức Đại Nhựt Như Lai) trên Trời đã thuyết giảng giáo pháp bí mật cho chư Bồ Tát, đứng đầu là vị Kim Cang Tát Đỏa. Và vị Kim Cang Tát Đỏa này cũng chính là Bồ Tát Phổ Hiền. Còn Đức Thích Ca là Ứng thân của Đức Đại Nhựt Như Lai.

[2] Ước: Đoán định một cách đại khái, áng chừng, ước chừng.

[3] Gió nghiệp: Sức nghiệp như gió. Ý nói chúng sanh bị trôi dạt trong biển sanh tử bởi nghiệp lực.

[4] Các căn đều đầy đủ: Chỉ các giác quan của con người.

[5] Chơn Ngôn Môn: Là pháp môn tu trì Chơn Ngôn thần chú. Chơn Ngôn Môn là một trường phái Mật Tông Phật Giáo của Nhật Bản, ra đời vào thế kỷ thứ 9, và được sáng lập bởi đại sư Không Hải.

[6] Muôn hạnh: Vô số các hạnh nguyện, hành động, việc làm thiện lành, tích cực của một vị Bồ Tát để cứu độ chúng sanh, giúp chúng sanh thoát khỏi khổ đau

[7] Tịnh tâm: Bản tánh thanh tịnh của con người vốn đầy đủ. Tâm thanh tịnh thì thân nghiệp và khẩu nghiệp cũng thanh tịnh.

[8] Những việc làm đều vì kiến lập chúng sanh: Hành động lợi lạc cho chúng sanh, việc làm mang lại lợi ích cho nhân loại.

[9] Ước theo dụ: Nói một cách đại khái theo thí dụ.

[10] Bản giác: Tâm của chúng sanh vốn sẵn có tính giác ngộ sáng suốt, nhưng bị che bởi vô minh từ khởi thủy tới nay. Nhờ công tu hành mới tỏ rõ được tính giác ngộ sáng suốt đó, nên gọi là Bản giác hay Bổn giác.

[11] Năng dụng: Có công năng sử dụng, có công dụng thực tế.

[12] Thật tướng: Là một khái niệm chỉ bản chất chân thực của vạn vật. Đó là chân lý tối hậu, là mục tiêu hướng tới của người tu Phật Giáo.  

[13] Hoặc chướng: Đồng nghĩa với phiền não chướng, là chướng ngại do mê mờ, do si mê.

[14] Thù thắng: Tính cách siêu tuyệt, hiếm có đặc biệt, ưu tú nổi bật.

[15] Chiến cụ: Là các loại khí giới, binh khí, dụng cụ được sử dụng trong chiến đấu.

[16] Đệ nhất Nghĩa Không: Phật Giáo Đại Thừa cho rằng nghĩa lý về Niết Bàn và thật tướng các pháp là “Đệ nhất nghĩa cùng tột.” Theo đó, “Đệ nhất nghĩa không” là cái lý về Tánh Không của “Đệ nhất nghĩa cùng tột.” Nó hàm ý rằng trong Niết Bàn cũng không có tướng Niết Bàn, hay thật tướng các pháp đều là không. (Xem thêm “Lập trường Không Lý” bên dưới)

[17] Nam Thiên Thiết Tháp: Tòa tháp bằng sắt ở Nam Thiên Trúc. Thiết tháp xưa nay được giải thích bằng hai thuyết: Thuyết thứ nhất là Thiết tháp không có thiệt, chỉ mang nghĩa biểu tượng cho nội tâm của ngài Long Thọ, cũng tức là chỉ cho tâm tánh sẵn có của chúng sanh. Thuyết thứ hai tin rằng Thiết tháp có thiệt, tồn tại trong lịch sử.

[18] Đại Pháp: Pháp Đại Thừa, Pháp lớn lao.

[19] Chú phúc: Chú nguyện và ban phước lành.

[20] Lập trường Không Lý: Còn gọi là lập trường về Tánh Không. Ngài Long Thọ chỉ ra rằng bản chất của tất cả các pháp hoàn toàn do duyên khởi mà có, và vì duyên khởi nên nó không chân thật, nó chỉ là như huyễn, không thật có, không có tự tánh riêng, là giả danh. Với tư tưởng này, Ngài Long Thọ khai sáng tông phái Trung Quán và viết ra tác phẩm Trung luận.

0 0 votes
Article Rating
Nhận Thông Báo
Thông báo khi
guest

Bài Viết Liên Quan

Bài Pháp Số 6: Đại Bồ Tát Duy Ma Cật Giáo Hóa Ma Ha Ca Chiên Diên

Tôn giả Ma Ha Ca Chiên Diên (Mahākātyāyana) là một trong mười đại đệ tử nổi tiếng của  Phật Thích...

PHẦN 6 – KHƯƠNG THƯỢNG VỀ TRẦN CƯỚI VỢ

Đây nói về lúc sau khi lạy thầy và từ giã bạn xuống núi, Khương Tử Nha vì không còn...

mật phước tự chu văn vương mời khương tử nha về dinh

Bài 34: Làm Sao Thỉnh Thầy Về Dinh

Có người hỏi lão thế này. “Làm sao mới thỉnh được thầy về dinh?” Lão đây cũng rất thật tình...

quan thánh đế quân hộ mạng

Xăm Quan Thánh 68

Xăm Quan Thánh 68: Trung Bình 第六十八号簽 中平南販珍珠北販鹽年來幾倍貨財添勸君止此求田舎心欲多時何日厭碧仙注人事茫茫歷世艱得休閒䖏目休閒若謀富貴不知足自有灾愆不待言 Âm: Nam phạn trân châu, Bắc phạn diêm,Niên lai kỷ bội trinh...

KINH THÁNH TÂN ƯỚC

12. KINH THÁNH TÂN ƯỚC

Tân Ước, còn gọi là Tân Ước Hi văn hoặc Kinh Thánh Hi văn (Tiếng Anh: New Testament) là phần...

điểm đạo và trộm đạo mật phước tự

Trộm Pháp (phần 1)

Khoảng năm 1998, tôi có quen một người Mỹ trắng, anh ta là gốc Thiên Chúa giáo nhưng lại rất...

Bài 121: Làm người sang

Người sang chẳng bởi xiêm y Chẳng do trang sức mang đi bên mình Dẫu xài hàng hiệu lung linh,...

quan thánh đế quân hộ mạng

Xăm Quan Thánh 59

Xăm Quan Thánh 59: Trung Bình 第五十九号簽 中平門衰户冷苦伶仃自嘆祈求不一靈幸有袓宗陰騭在香烟未斷續螟蛉碧仙注赦寛之後可榮華福有生來富貴家凡事前緣宜有合到門當户心堪誇 Âm: Môn suy hộ lãnh khổ linh đinh,Tự thán kỳ cầu bất...

0 Comments
Bình chọn nhiều nhất
Mới nhất Cũ nhất
Inline Feedbacks
Xem tất cả bình luận
Chia Sẻ Bài Viết