II. CÁC KINH KHÁC TUYÊN THUYẾT VỀ THẦN CHÚ THUỘC PHẦN MẬT GIÁO
Ngoài hai bộ kinh căn bản Đại Nhựt và Kim Cang Đảnh, nhiều bộ kinh khác được phiên dịch từ Phạn ra Hán văn do nhiều vị Tam Tạng Pháp Sư[1] đưa ra hoằng hóa, đã được tập thành trong phần Mật Bộ của Bộ Đại Tạng Kinh do công đức của các nhà vua Trung Hoa đã tín ngưỡng và sắc chỉ[2] cho các vị Pháp Sư dịch thuật và truyền bá trong nước. Bộ Đại Tạng Kinh được lưu truyền cho đến ngày nay và dĩ nhiên bao gồm Mật Tạng trong đó.
Việc trình bày giáo thuyết căn bản của các bộ kinh Mật Giáo thuộc phần Mật Bộ không mấy khó khăn mặc dù có đến hàng mấy trăm bản kinh thuyết về các Đarani[3] khác nhau vì các lý do sau đây:
- Các kinh điển của Mật Giáo đặt nặng về phần thực nghiệm tâm linh hơn là để trình bày các triết thuyết.
- Mặc dầu có các chi tiết hoàn toàn khác biệt, các bộ kinh đều được trình bày căn cứ vào các điểm tựa chung, đó là: chỗ pháp hội, đại chúng tham dự pháp hội, cơ duyên tuyên thuyết thần chú, pháp kiến lập đạo tràng, pháp họa tượng, pháp Hộ ma, pháp niệm tụng công đức thành tựu của Mật chú, chư Tôn hộ trì thần chú, chúc lụy.[4]
- Các đạo Chơn Ngôn tuy nhiều, nhưng nếu hành trì nhất đạo Chơn Ngôn được thành tựu, thời tất cả công năng của các thần chú khác cũng đều được thành tựu.
- Trong Mật Bộ Đại Tạng Kinh, thần chú được thuyết không ra ngoài hai mươi lăm bộ. Có thể kể như sau:
– Phật Bộ: là chú của Chư Phật giới thiệu.
– Liên Hoa Bộ: là chú của Bồ Tát Quan Thế Âm và Liên Hoa Bộ Thánh Chúng giới thiệu.
– Kim Cang Bộ: là chú của Kim Cang Thủ Bồ Tát và Kim Cang Bộ Thánh Chúng giới thiệu.
– Bảo Bộ: là chú của Phật do Chư Thiên giới thiệu.
– Yết Ma Bộ: là chú của Phật do Quỷ Thần giới thiệu.
Năm bộ này mỗi bộ gồm có năm bộ nhỏ, nên toàn bộ có tất cả là hai mươi lăm bộ thần chú.
Nay công đức của hai mươi lăm bộ thần chú này, rộng lớn thì vô lượng nhưng có thể tóm lược trong mười môn[5] sau đây:
1. Hộ trì quốc vương, an lạc nhân dân môn.
2. Năng diệt tội chướng, viễn ly[6] Quỷ Thần môn.
3. Trừ thân tâm bịnh, tăng trưởng phước huệ môn.
4. Phàm sở cầu sự, giai Bất Tư Nghì[7] môn.
5. Lợi lạc hữu tình, cứu thoát u linh[8] môn.
6. Là chư Phật Mẫu giáo hạnh[9] bổn nguyện môn.
7. Tứ Chúng[10] dị tu[11] Kim Cang Thủ Hộ[12] môn.
8. Linh, Phàm đồng Phật Như Lai quy mạng[13] môn.
9. Cụ[14] tự tha lực hiện thành[15] Bồ Đề môn.
10. Chư Phật Như Lai thượng nãi cầu học[16] môn.
THỨ NHỨT: HỘ TRÌ QUỐC VƯƠNG AN LẠC NHÂN DÂN:
– Bí Mật tạng Đarani kinh nói: “Đarani năng hộ trì quốc vương an lành nhân dân.”
– Bảo Tịnh Đarani kinh nói: “Trong tất cả quốc độ, nơi nào có Đarani lưu hành, thì thường khiến nhơn vương được ủng hộ, thế lực tự tại;[17] cũng hay ủng hộ sự chánh hòa của quốc vương, những kẻ như vương tử, hậu phi, tể tướng, phụ thần, các quan tướng thảy đều được ủng hộ, khiến được an vui. Trong nước nếu có nội ngoại oán địch, mưu kế, gian trá, tật dịch cơ cẩn,[18] nắng hạn, lụt lội, ác thú độc long, tất cả việc bất tường như vậy thảy đều đoạn dứt, lại khiến tiền tài, lúa thóc phong nhiêu,[19] kho lẫm đầy rẫy, hoa trái sung thạnh, nhân dân an vui.”
– Bảo Tạng Đarani Kinh nói: “Đarani lưu hành chỗ nào, hay ủng hộ các quốc vương, vương tử, phi hậu, công chúa, trăm quan, phu, tướng, khiến cho các tai nạn tiêu diệt, sở nguyện viên thành.[20] Thiên Thần gia hộ, không khiến ma quỷ đến nhiễu não[21] và trong nước được mười thứ quả tốt:
1. Trong nước không có tha binh, oán tặc xâm nhiễm.
2. Trong nước không có tinh tú biến quái[22] mà khởi lên tai nạn.
3. Trong nước không có ác quỷ thần hành các tật dịch.
4. Trong nước không có gió lửa, sương muối, mưa đá, các nạn.
5. Trong nước không có kẻ oan gia rình tìm được.
6. Trong nước không bị các ma bức bách.
7. Trong nước không có các hoạnh tử.[23]
8. Trong nước năm món thóc lúa đầy đủ, trái ngon quả ngọt v.v…
9. Trong nước thiên long, mưa gió thuận thời, không có nắng hạn bão lụt.
10. Trong nước người không bị các thú dữ như: cọp, beo, sói, các ác thú làm tổn hại.”
– Thất Phật Kinh Chú nói: “Đarani, nếu nhựt nguyệt đi không đều, có thể khiến cho đi ngay lại, lúa gạo mất mùa, năng khiến được mùa, đại thần mưu phản, ác tâm tự diệt, tật dịch đao binh, thảy đều tiêu tán. Các vị nhơn vương muốn hiện đời được an vui, lìa các hoạn nạn, nên cẩn tâm đọc tụng Đarani và nên khuyên hậu phi, thể nữ và các vương tử cùng tụng niệm.”
– Thủ Hộ Quốc Giới Chủ Đarani nói: “Vì sao lại nói hộ nơi quốc vương một cách thiên vị? Thật ra quốc chủ an vui thì vạn dân mới an vui, vì vậy nên nói hộ nơi quốc chủ.”
– Diệp Y Quán Tự Tại Bồ Tát Kinh nói: “Đarani năng trừ tất cả tai họa, tật dịch, đói kém, giặc cướp, binh đao, nắng hạn không đều, tinh tú thất độ. Cũng hay tăng trưởng phước đức, cõi nước giàu mạnh, nhơn dân an vui. Quốc vương, nam nữ đều được trường thọ.”
– Kinh Tô–bà–ha Đồng Tử nói: “Ly ngoài Chơn Ngôn không có pháp riêng nào năng ban vui cho chúng sanh được.”
THỨ HAI: NĂNG DIỆT TỘI CHƯỚNG, VIỄN LY QUỶ THẦN MÔN.
– Kinh Bồ Đề Trường Trang Nghiêm, Kinh Tối Thắng[24] Tổng Trì,[25] Kinh Lầu Các Đarani v.v…Hơn hai mươi bản kinh đều nói: Viết chép Đarani để trong tượng Phật, Tháp, trong Bảo Xử,[26] hoặc viết trên tràng phan, trên cây, viết trên vải, lụa, giấy, tre, hoặc trên vỏ cây hoa, vách tường, bản mộc; khiến chúng sanh được xem thấy; hoặc thân tay rờ đến; hoặc đi qua dưới bóng; hoặc những bụi trần trên chữ chân ngôn mà gió thổi nơi thân; hoặc chép viết, đeo mang tại đảnh, trên thân trong áo; hoặc viết trên tràng phan, nếu gió thổi trên phan rơi vào chỗ chúng sanh; hoặc chép lên chuông, trống, linh,[27] mõ, loa, bạt[28] v.v.., mà các tiếng ấy phát ra nghe được tiếng ấy. Tất cả những điều vừa nói trên đều khiến cho chúng sanh, dầu bị tội ngũ vô gián[29] là nghiệp mà chư Phật cho rằng không sám hối được, cũng thảy đều sẽ diệt tan, các đời sau sanh về các nước Phật, huống chi thân tụng trì đó ư?
– Lại Mạt Pháp Trung Nhựt Tự Chú Kinh và hết thảy Đarani kinh đều có nói: “Người trì tụng nói bốn phương hướng, trong vòng năm trăm dặm, các ác tinh diệu, quỷ thần, thiên ma v.v…hết thảy chạy tản lạc mà đi. Vị nào có phát thiện tâm thủ hộ thì không đi. Nếu có kẻ nào có ý làm chướng ngại mà ở lại phá, liền bị chư Hộ Pháp đập bể đầu ra trăm miếng; thân tâm dập nát. Nhờ thế nên hành giả không bị các ma chướng mà được đến Bồ Đề.”
– Mật Bộ các kinh đều nói: Đarani năng lìa ma chướng, nơi đây chớ nên luận bàn. Như Hiển Giáo, trong kinh Pháp Hoa sợ có kẻ giảng tụng, tu tập kinh Pháp Hoa có bị các ma chướng nên nói phẩm Đarani khiến trừ ác ma. Kinh kia nói: “Nếu chẳng thuận Chú ta, não loạn người thuyết pháp, đầu bị phá bảy phần, như nhánh cây A–lê.”[30]
– Thích Ma Ha Diễn Luận: Dạy người tọa thiền cần phải tụng chú để trừ ma.
– Chỉ Quán Kinh cũng có nói: “Nếu các ma chướng làm não loạn sự tọa thiền, hành giả nên tụng Đại Thừa Phương Đẳng và các chú trị ma nói trong Kinh Giáo. Nếu khi xuất thiền cũng nên tụng chú.”
– Kinh Kim Quang Minh: “Hàng Thập Địa Bồ Tát còn lấy thần chú để hộ trì, huống gì phàm phu ư?”
– Kinh Thủ Lăng Nghiêm có nói: “Nếu không trì chú mà ngồi Đạo tràng khiến thân tâm xa lìa các ma sự, lẽ đó không bao giờ đúng.” Cũng như “đời mạt thế chúng sanh, muốn tu tam muội sợ đồng tà ma, nên phải khuyến khích trì thần chú của Ta (Phật). Nếu chưa năng tụng, chép nơi thiền đường hay đeo trên mình thì tất cả các ma chướng không dám đụng đến.” Các văn như vậy Tạng Giáo rất nhiều, hiện thấy người đời bị quỷ thần não hại,[31] kẻ trì chú còn trừ cho họ được, huống chi tự thân mình lẽ nào ma quỷ dám làm hại ư!
THỨ BA: TRỪ BỊNH THÂN TÂM, TĂNG TRƯỞNG PHƯỚC HUỆ
– Kinh Thánh Lục Tự Đarani, Kinh Văn Thù Nhất Tự Chú v.v…Hơn mười lăm bổn kinh, đều nói môn hạnh Đarani năng trừ được các món thân tâm bịnh khổ. Nói thân tâm bịnh ấy là tất cả các thứ bịnh. Hoặc tứ đại[32] làm các thứ bịnh; hoặc ngũ tạng làm các thứ bịnh; hoặc quỷ thần làm ra bịnh; hoặc những bịnh do túc nghiệp[33] gây ra. Những bịnh như vậy, lấy thần chú bất tư nghì lực có thể trừ lành.
– Kinh Trì Cú Thần Chú, Kinh Đại Bi Tâm Đà–ra–ni năng khiến cây khô trở lại sanh hoa trái, huống chi là các bịnh hữu tình mà không trừ được sao!!!
– Kinh Diệu Tý Đồng Tử, Kinh Tô Tất Địa v.v… đều nói: “Nếu cầu thượng phẩm đại thành tựu, không được dùng Chơn Ngôn để sai khiến quỷ thần, bắt quỷ thần phải kìm hãm các trùng rắn để giúp trị lành bịnh cho người khác. Làm việc đó thì khó thành tựu việc lớn. Kẻ tu học nên y lời Phật, coi chừng dè dặt. Nhưng nếu thật lòng đại bi sâu rộng, ôm lòng Bồ Tát thì không ngăn cản việc đó.”
– Kinh Bạch Tán Cái[34] Đarani nói: “Nếu có túc tập[35] tham tâm không được trừ diệt, thì phải một lòng tụng thần chú của ta. Như cô Ma–đăng–già đã cùng ông A–nan nhiều kiếp ân ái, đem chú lực của Ta, làm cho ái tâm vĩnh đoạn,[36] trở thành A-la-hán;[37] còn như cô dâm nữ kia chẳng có tâm tu hành, khi thần chú thấm vào cũng mau chứng bậc vô học,[38] huống gì bản tâm cầu đạo Bồ Đề đấy ư!”
– Kinh Bất Không Quyến Sách:[39] “Trừ quỷ thần bịnh (bịnh tà) phải tu ba nghiệp thanh tịnh, đủ từ bi tâm; chư vị Bồ Tát mới hay làm việc đó.”
– Kinh Đại Bi Tâm Đà–ra–ni nói: “Chí tâm xưng niệm Đarani, lửa dâm dục tắt, tà tâm loại trừ.”
– Như Ý Luân Kinh và nhiều bản kinh Đarani nói: “Chơn Ngôn hành giả hiện năng tăng trưởng tất cả phước huệ, phàm lời đã nói ra, người đều tin thọ, chỗ dụng y vật, tài bảo, tất cả cử ý tùng tâm,[40] năng khiến trong vòng năm trăm do tuần[41] người, trời, quỷ, thần đều đến quy ngưỡng. Lại tự nhiên thông hiểu hết cả Kinh, Luật, Luận và các sách vở của thế gian. Hoặc nhớ tất cả không quên điều gì; mỗi ngày nhớ đến hàng ngàn bài tụng.”
– Kinh Đại Nhựt Đảnh Như Lai Phóng Quang Tất Đát Đa Bát Đát Ra Đại Thần Lực Đô Nhiếp nhất Thiết Chú Vương Kinh Đại Oai Đức Tối Thắng Kim Luân Tam Muội Chú nói: “Nếu đọc tụng, hoặc tụng Ðarani ấy, dù các chúng sanh này, tự thân của mình không làm các phước nghiệp, mười phương Như Lai đã có công đức tất phải ban cho người này.” Lại nói: “Nếu trì thần chú, không sanh nghi hối,[42] mà kẻ thiện nam đó, do các bậc cha mẹ sanh ra mà tâm không được thông thì mười phương chư Phật đều nói dối.”
Lại nói rằng: “Chưa tinh tấn khiến được tinh tấn, vô trí tuệ sẽ được trí tuệ v.v… Như chất thuốc dược nhĩ[43] ở thế gian còn hay khiến người trừ bỏ ngủ nghỉ, tăng trưởng tinh thần, huống nữa thần chú lại không sanh trí tuệ ư!”
– Kinh Bất Không Quyến Sách Thần Chú Tâm Kinh nói: “Nếu có tứ chúng thọ trì trai giới,[44] chuyên tâm trì tụng thần chú bảy biến, chẳng xen tạp ngữ khác, phải biết người này hiện đời chắc chắn giữ được hai mươi món lợi thù thắng. Hai mươi lợi đó là:
1) Thân không bị bịnh tật, được an ổn khoái lạc.
2) Do nghiệp lực đời trước, tuy có sanh bịnh nhưng trị mau lành.
3) Thân thể mềm mại, da thịt sạch sẽ, trắng đẹp; mặt mày sáng sủa.
4) Được mọi người thương kính.
5) Mật hộ các căn (tai, mắt…)
6) Được nhiều tiền của quý báu, tùy ý thọ dụng.
7) Đã có tài bảo, vương, giặc, nước, lửa không thể xâm tổn.
8) Sự nghiệp làm ra đều thành tựu tốt.
9) Đã có các món trồng tỉa, không sợ ác long, sương muối, bão lụt làm tiêu hủy.
10) Nếu có lúa thóc tai họa xâm phạm, nên tụng thần chú gia trì nơi tro, hoặc nước trải qua bảy biến, rồi đem rưới vào ruộng khắp tám phương; trên, dưới để làm kiết giới,[45] bấy giờ các tai hoạnh đều được diệt trừ.
11) Không bị sự bạo ác của quỷ thần, la–sát đến hớp đoạt tinh khí.
12) Tất cả hữu tình nghe, thấy, hoan hỷ, an lạc thường tôn trọng, không nhàm chán.
13) Không hề sợ sệt tất cả các oán cừu.
14) Dù có oán cừu cũng mau tiêu diệt.
15) Người và các kẻ phi nhân không thể xâm hại.
16) Yếm mị, trù rủa, thuốc độc, yếm chú chẳng dính vào thân.
17) Phiền não, triền cấu[46] không thể hiện hành.
18) Dao, độc, nước, lửa không thể làm phương hại.
19) Chư Thiên, Thiện Thần thường theo hộ vệ.
20) Đời đời không xa lìa Từ, Bi, Hỷ, Xả.
– Kinh Thập Nhất Diện Quan Thế Âm Thần Chú có nói: “Nếu có các tịnh tín,[47] thiện nam, tín nữ thường trì tụng thần chú, hiện thân sẽ thu được mười món thắng lợi; mười món đó là:
1) Thân thường vô bịnh.
2) Thường được mười phương chư Phật nhiếp thọ.[48]
3) Tài bảo, y thực thọ dụng vô tận.
4) Năng hàng phục kẻ oán địch mà không lo sợ.
5) Khiến các bậc tôn quý cung kính vâng lời.
6) Cổ độc,[49] quỷ mị, không thể làm trúng thương.
7) Tất cả dao, gậy không thể làm thương tổn.
8) Nước không thể nhận chìm.
9) Lửa không đốt được.
10) Lâm chung không bị hoạnh tử.[50]
THỨ TƯ: PHÀM CÓ SỞ CẦU, GIAI BẤT TƯ NGHÌ.
– Kinh Quán Tự Tại Nghi Quỹ, Kinh Văn Thù Sư Lợi Nghi Quỹ, Kinh nhất Tự Đảnh Luân và hơn mười bổn kinh khác đều nói: Chơn Ngôn hành giả khi cầu thành tựu thì dùng bốn thứ vật:
1) Cung, tên, rựa, búa, câu, luân, xử, cảnh, sổ châu,[51] bình bát, cà sa; tất cả các vật dụng của chư tăng.
2) Hùng hoàng, thư hoàng[52] cũng như các món thuốc khác.
3) Lấy đất trên bờ sông hòa với bùn dẻo rồi nắn thành hình sư tử, voi, ngựa, trâu… tức là loài đi, chạy, hoặc gà, ngỗng, chim, công, sí, điểu… là loài bay hoặc các hình thú khác.
4) Đắp, vẽ hay điêu khắc các hình tượng Phật, Bồ Tát, Minh Vương. Tùy lòng ưa muốn phân biệt ra làm một việc.
Y như pháp trên, xong rồi đem để trong Đàn, như pháp tụng chú, khi thấy được ánh lửa xẹt ra, hoặc tay cầm, hoặc xoa thân, hoặc cỡi lên cùng trợ bạn trí thức bay lên hư không. Hoặc có người thấy; tất cả đều được bay lên hư không, dạo chơi khắp thế giới, cúng dường chư Phật, Bồ Tát; đều thọ mạng một kiếp, chứng được Sơ Địa.[53]
Nếu thấy khói xẹt ra, hoặc tay cầm hoặc xoa thân, sẽ được làm vua ở cõi tiên, trụ thọ muôn muôn tuổi. Nếu hơi khí nóng phát ra, được tất cả Nhơn, Thiên kính ái, sở cầu như ý.
Dưới đây là tướng thành tựu của ba phẩm thượng, trung, hạ:
– Nếu hỏa quang hiện ra, được tất cả chư Thần thường đến ủng hộ, các chúng Bát bộ thường cung kính. Dùng tất cả thần chú đều được tối thắng, linh nghiệm.
– Nếu tướng khói hiện ra, tùy chỗ đi, ở đều không chướng nạn, sở cầu toại tâm.
– Nếu khí nóng hiện ra, được tất cả người và quỷ thần đồng tâm kính ái.
Ở Thiên Trúc có một người được thành tựu Thượng phẩm, dẫn năm trăm người bay lên hư không. Như tại đây (Trung Hoa) có ông Hoài Nam Vương luyện chú nấu thuốc, gà, chó, đến liếm trong vạc đều bay lên hư không. Cho nên mọi người nói rằng: Hoài Nam thành đạo, chó sủa trong mây; Vương Kiều đắc tiên, kiếm bay lên trời. Dược lực còn như vậy, huống chi thần chú của Phật không thể nghĩ bàn ư!
– Thần Biến Sớ nói: “Người, tay cầm Tiên Phương[54] chưa từng hòa hiệp dùng uống, lại hủy báng rằng: ban ngày bay lên hư không, cho là hư dối; toàn là chuyện không tưởng.”
– Đại Giáo Vương Kinh Đarani nói: “Hoặc khiến người tìm Long nữ làm vợ, hàng Dược–xoa làm tôi tớ, cầm quyền tác vào Tu–la cung; chú vào tử thi khiến khai mở những của báu dưới đất; hoặc nói thành nơi thánh dược; hoặc nói tìm đến các tài bảo v.v…
Trong Hiển giáo việc này ít nghe, cho nên Tiên đức[55] nói: “Ngoài Tam Thừa[56] ra, riêng có pháp Trì Minh[57] vậy.”
*Hỏi: Bổn ý của chư Phật là khiến đoạn tham, sân, si; cớ sao khiến người khơi lòng tham cầu thế sự vậy?
*Đáp: Chư Phật có phương tiện độ sanh không thể nghĩ bàn. Nghĩa là có những chúng sanh không chịu cầu thẳng tới đạo Bồ Đề và lại tùy lòng ưa muốn khiến trì chú mà cầu. Do sức thần chú không thể nghĩ bàn, việc mong cầu được toại lòng, tất cả tội nghiệp được tiêu diệt, tự nhiên siêu phàm nhập thánh. Như đứa trẻ con có bịnh không chịu uống thuốc, thầy thuốc có đủ trí, thoa thuốc nơi vú mẹ trẻ nít kia nút vào, không ngờ đã uống được thuốc hay, trừ được bịnh khổ.
– Kinh Quyến Tác Tâm Chú có nói: “Nếu có chúng sanh dù đem dua mị[58] để cầu phú quý, danh lợi; nếu được nghe chú này, các chúng sanh đó đời đời kiếp kiếp thành tựu được phước tụ trí tuệ.”
– Thần Biến Sớ nói: “Cảnh giới Chơn Ngôn, hàng Thập địa Bồ Tát[59] còn cho rằng chẳng phải cảnh giới của các Ngài; huống là những người trong cõi tử ư!”
THỨ NĂM: LỢI LẠC HỮU TÌNH CỨU THOÁT U LINH.
– Đại Bảo Quảng Bác Lầu Các Kinh, Đại Bi Tâm Kinh, Mậu Lê Chú Kinh v.v… hơn mười lăm bổn kinh đều nói: “Nếu có chúng sanh được thấy thân người trì chú, hoặc nghe âm thanh lời nói, hoặc đi qua trong bóng của họ, thì được tận diệt được tội thập ác, ngũ nghịch, đời sau được sanh vào các tịnh độ của Phật. Lại người trì chú, chỗ mặt họ thấy, chỗ thân họ chạm xúc, hết thảy loài hữu tình cũng diệt tất cả tội, đời sau sanh các nước Phật. Như người trì chú, khi đi đường có gió thổi, hơi gió này chạm vào hành giả rồi cuốn đi; hoặc thân tắm rửa trong sông, nước trôi cuốn đi những kỳ cọ; hoặc khi trời mưa, ngửng mặt lên không trung tụng chú, những hạt nước mưa trên không cũng thấm nhuần linh lực; hoặc trên đỉnh núi tụng chú, chỗ nào tầm mắt phóng tới. Tất cả sự kiện trên đều ảnh hưởng đến các chúng sanh, khiến mọi tội lỗi đều tiêu diệt, đời sau được sanh về cõi tịnh độ của chư Phật, hóa sanh trong hoa sen. Như thế gian chỗ có thuốc độc, đi qua dưới gió, khi gió chạm vào liền bị tổn thương còn có công lực khó lường; huống nữa thần chú không thể nghĩ bàn ư!
– Kinh Quyến Tác nói: “Nếu nghe Đarani mà sanh hủy báng, cũng vẫn được lợi ích. Như người có ác tâm đi vào trong rừng long não chiên đàn,[60] rồi chặt bẻ, dậm, đạp; làm cho gãy ngã tất cả, chính thân kẻ phá hoại đó cũng dính được cái hương khí thơm tho kia. Cho nên trong Phật Đảnh Tụng có nói: “Thần thông thắng hóa[61] khó nghĩ bàn, Đarani môn thật là đệ nhất.”
– Kinh Vô Cấu Tịnh Quang, Kinh Bất Không Quyến Tác, Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng, Kinh Tùy Cầu v.v… nói: “Nếu vong nhơn tạo nhiều ác nghiệp khi chết bị đọa tam đồ;[62] Chơn Ngôn hành giả liền xưng tên, tuổi, tộc họ của vong linh rồi chuyên tâm chú tụng, lúc bấy giờ vong ấy sẽ lìa khỏi được ác thú và sanh nơi thiên thượng. Hoặc lấy Chơn Ngôn chú vào nơi đất cát, hoặc hoa sen rải trên mộ, trên thi hài của vong nhơn, liền được sanh về cõi tịnh độ của Phật. Ngoài ra, các y vật, thân phần cốt nhục của vong nhơn mà được bóng người trì chú chói vào, cũng sanh về những nước Phật. Lại chép Đarani rồi đặt trên hài cốt của vong nhơn, vong đó liền sanh nơi Thiên cung. Cho nên bậc Tiên đức có nói: “Bụi rơi bóng chói; thần dạo Thiên cung; rải đất, rưới nước; thức lìa ác thú.”[63]
*Hỏi: Vong nhơn tạo nghiệp đã thành, bị đọa trong tam đồ vì sao Chơn Ngôn hành giả hoặc xưng tên, họ vong nhơn; hoặc chú nguyện vào cát, đất để trên mộ, trên thi hài mà lại giúp cho vong nhơn đó chuyển khỏi đường ác khổ, còn được vui sướng ở nước Phật ư! Chẳng những kẻ tục sĩ ôm lòng hoài nghi, mà chính các vị xuất gia cũng khó tin.
*Đáp: Kẻ trí lấy thí dụ mà được hiểu: “Như cấm chú của người đời; cấm lửa không cháy, cấm dao không đứt, cấm rắn không mổ. Còn hay khiến hữu độc thành ra hết độc; huống chi là thần chú của Đức Như Lai, không thể đổi khổ được vui đó ư!
Ngài Trang Tử nói: “Ngoài lục hiệp,[64] thánh nhơn xét đến nhưng không luận bàn.”
– Kinh Hoa Nghiêm có nói: “Lượng trí công đức đầy đủ của Thập Địa Bồ Tát, thì Cửu Địa Bồ Tát không hay biết, huống nữa Đức Như Lai là vua trong các Thánh; chỗ có bí mật tâm ấn, đâu có thể lấy vọng tánh của phàm phu mà muốn so lường đó ư! Kìa như con cá nằm đáy giếng làm sao biết sự sâu rộng ở biển Đông, chỉ nên tin chắc đó.”
– Kinh Quán Thế Âm Bồ Tát Bí Mật Tạng Thần Chú có nói: “Nếu có người trì chú, phàm ra làm việc gì cũng được thành tựu, chỉ cần phải thâm tín,[65] không được sanh nghi,” “người trì chú còn có công năng lợi lạc hữu tình, cứu thoát u linh.”
– Kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Đại Bi Tâm Đarani nói: Người trì chú sẽ không bị mười lăm món ác tử:
1) Không khiến người kia chết vì đói khát, khốn khổ.
2) Không bị chết vì cột trói, đánh đập.
3) Không bị oan gia, cừu địch mà hại chết.
4) Không bị quân trận giết nhau mà chết.
5) Không bị chết vì cọp beo làm hại.
6) Không bị vì rắn rít độc làm hại.
7) Không bị chết vì nước trôi, lửa cháy.
8) Không bị chết vì trúng độc dược.
9) Không bị trúng độc hại chết.
10) Không bị cuồng loạn, thất niệm[66] mà chết.
11) Không bị chết vì núi, cây, bờ gộp sập đè.
12) Không bị ác yếm mị mà chết.
13) Không chết vì tà thần, ác quỷ rình hại.
14) Không bị ác bịnh triền[67] mà chết.
15) Không bị phi phản tự hại[68] mà chết.
– Kinh Bất Không Quyến Tác Thần Chú Tâm nói: “Người tụng chú lúc lâm chung được tám món lợi thù thắng:
1) Khi mạng lâm chung, thấy Quán Tự Tại Bồ Tát hiện ra tướng tỳ kheo đến trước mặt an ủi.
2) Mạng chung được an ổn, không bị các sự thống khổ.
3) Lúc sắp bỏ mạng, mắt không trợn lên, miệng không hả méo, tay buông thong thả, chân duỗi ngay ngắn, không tiết ra phân dơ, nước tiểu, không bị trụt, rớt xuống đất.
4) Lúc sắp bỏ mạng, an trụ nhờ chánh niệm, ý không loạn tưởng.
5) Lúc chết không úp mặt.
6) Khi sắp chết được vô tận biện.[69]
7) Khi đã xả mạng rồi, tùy nguyện sanh về cõi tịnh độ của chư Phật.
8) Thường cùng thiện hữu[70] không xa rời nhau.”
– Kinh Thập nhất Diện Quan Thế Âm Chú nói: “Người tụng chú được bốn món công đức:
1) Khi lâm chung được thấy chư Phật.
2) Mạng chung không bị đọa vào chốn ác thú.
3) Không bị hiểm nạn, tai ách mà chết.
4) Được sanh vào cõi Cực lạc thế giới.”
THỨ SÁU: CHƯ PHẬT MẪU GIÁO HẠNH BỔN NGUYỆN
Tất cả Chư Phật đều từ Đarani sanh ra.
– Kinh Lầu Các nói: “Chơn Ngôn là mẹ của Chư Phật, thành chủng tử Phật, nếu không Chơn Ngôn thì không thành chánh giác. Tất cả tam tạng kinh điển đều do Đarani xuất ra.”
– Kinh Tối Thượng Đại Bảo Thừa Vương nói: “Có bốn thừa:
1) Thanh Văn Thừa,
2) Duyên Giác Thừa,
3) Phương Quảng Đại Thừa,
4) Tối Thượng Kim Cang Thừa, đó là Đarani tạng vậy.”
– Thần Biến Sớ nói: “Vô Tướng Pháp Giới toàn là Chơn Ngôn, Chơn Ngôn toàn là Vô Tướng Pháp Giới, vả lại Chơn Ngôn cũng gọi là Tam tạng, nghĩa là trong Chơn Ngôn mỗi mỗi một chữ đều gồm đủ cả: Giới, Định, Huệ, dù muôn hạnh, không ra ngoài Lục độ,[71] không ly Tam học.[72] Đã nói Chơn Ngôn bao gồm Tam tạng, tức biết Chơn Ngôn bao gồm muôn hạnh. Chơn Ngôn là tổng hạnh,[73] các pháp môn khác đều là chi lưu[74] các hạnh môn.”
– Kinh Trì Minh Tạng Nghi Quỹ nói: “Chữ ÁN (ÚM) tức là Vô Tướng Pháp Giới mà ra.”
– Thần Biến Sao nói: “Ngàn dòng, muôn phái khởi từ núi Tích Thạch, Côn Lôn; mười hai phần Kinh phát xuất từ tạng Tổng Trì bí mật, lại muôn hạnh cũng do Đarani mà ra. Nghĩa là trong Chơn Ngôn, mỗi mỗi một chữ toàn là Vô Tướng Pháp Giới,[75] muôn hạnh đều từ pháp giới mà ra.”
* Hỏi: Trên dẫn kinh nói rằng: Đarani là Thiền Định Tạng, trăm ngàn tam muội thường hiện tiền. Nay lại nói: Chơn Ngôn tổng hàm tam tạng, tức biết Chơn Ngôn tổng chứa tất cả môn thiền định. Cớ gì thiền giả ngày nay không cho trì chú?
* Đáp: Trong các truyện ký Thiên Trúc và Trung Hoa, xưa nay các Thiền Đức[76] đều vâng làm các điều thiện, huống gì thần chú là Vô tướng định môn,[77] tâm ấn của Phật ư! Trong Bạch Tán Cái Đarani có bài tụng rằng: “Khai vô tướng môn viên tịch[78] tông, tự tự quán chiếu[79] Kim Cang Định”[80] hoặc “Du-già diệu chỉ[81] truyền tâm ấn, Ma–ha–diễn[82] hành tổng trì môn.”
Hoặc như Long Thọ Bồ Tát, trong Truyền Đăng Lục, ở Tây Thiên thiền tông là tổ thứ 14, còn chép lược ra kinh tạng trì minh[83] để hoằng dương thần chú Chuẩn Đề.
Ngài Nhất Hạnh Thiền Sư là thánh nhơn ở xứ Trung Hoa còn tán thuật Thần Biến Chơn Ngôn.[84]
Ngài Trí Giả Thiền Sư chứng Túc mạng thông[85] cùng rộng bày nghi quỹ trì chú.[86]
Khế Phù Thiền Sư, có người hỏi Tối Thượng Thừa, ngài liền dạy tụng Mật Ngôn.
Vậy xưa các thiền sư đâu không cho trì chú ư!
Lại như Thiền Tôn đã nói: Tất cả các pháp đều là Chân Như. Trì tụng Chơn Ngôn, đâu không phải là Chân Như? Nay có thiền sư hoặc giảng sư thấy hoằng truyền mật chú, sợ mất lợi của mình, tâm sanh tật đố. Vậy xin quý vị hiện tại cũng như vị lai đề phòng ác báo.
Bên trên tuy có nói: Hủy báng vẫn được lợi ích, nhưng sự lợi đó mong manh lắm; và hủy báng thường bị phạt vì Mật Chú là tâm ấn của Chư Phật, có vô lượng Minh Vương, Chư Thiên, Long Thần thảy đến hộ trì; nên khiến người hủy báng hiện đời đa phần bị trừng phạt. Xin mong kẻ trí phải cần dè dặt vậy.
THỨ BẢY: TỨ CHÚNG DỊ TU KIM CANG THỦ HỘ
Tất cả tứ chúng chỉ cần hiểu lời nói; đi, đứng, ngồi, nằm, trong bốn oai nghi, được dễ dàng tụng đọc. Lại chỉ miệng niệm được coi là chơn hạnh, năng trừ phiền não, an lạc pháp thân, không cần thông suốt giáo điển, như người bịnh được uống thuốc, uống vào liền trừ bịnh, thân an, không cần phải hiểu rộng sách thuốc.
– Kinh Bát Nhã Sớ nói: “Tổng Trì (thần chú) cũng như diệu dược, cũng như thiên cam lồ, năng trị lành các bịnh, uống thứ đó thường an vui.”
– Phật Đảnh Đarani Sớ nói: “Trai giới không thọ bẩm mà được đầy đủ, quả chứng tuy xa mà có thể được; tiêu hết nạn, đạt tới lợi ích; tự tu hành lại hóa độ cho người khác, bởi nhơn của người, bởi quả của người, không có việc gì mà không đạt được.”
– Mạn Trà La Sớ nói: “Ai niệm thần chú của Đức Như Lai, tâm tâm ám hợp tâm của Như Lai, đọc mật ngôn của Bồ Tát, sanh tử nào không lánh xa, Niết Bàn nào mà không chứng đắc. Nếu y các Tôn khác[87] tu hành, cần yếu phải biết rộng giáo lý của Phật, tỏ ngộ được chân tâm, nhiên hậu[88] tu hành, mới là chánh hạnh; nếu chưa ngộ mà tu, thì không phải chánh hạnh. Như người bịnh ở đời, cần yếu phải biết rộng sách thuốc, hiểu rõ dược tánh mới trị được bịnh, tức khó được trong muôn một vậy. Nên biết thần chú hạnh môn tóm lược công đức thâm sâu, khắp dẫn bảy chúng mau đến Bồ Đề, rất là yếu đạo.”
– Ngài Nghĩa Tịnh Tam Tạng có nói: “Lên trời cỡi rồng, sai xử trăm thần, phương pháp lợi sanh chỉ cần thần chú giúp đỡ.”
* Hỏi: Nếu y theo Hiển giáo sanh lòng tin, nương theo lòng tin phát sanh sự hiểu biết, nương sự hiểu biết phát khởi hạnh tu hành, tu hành thành chánh quả. Nay Mật Tông thần chú không cần sanh hiểu biết, chỉ cần trì tụng sẽ được đạo quả, hẳn đã vượt qua quy tắc thông thường, thật khó mà sanh lòng tin.
* Đáp: Như người bịnh trong thế gian không hiểu phương thuốc, gặp được thuốc thần diệu mà uống, liền được thân tâm an ổn. Nếu đã không hiểu dược tánh, vì sao trừ bịnh thân an? Thuốc đời còn như vậy, huống chi thần chú không thể nghĩ bàn của Đức Như Lai, cũng như giáo pháp của Như Lai khó thể lấy một lý mà suy cạn. Đã nói Hiển, Mật có khác; không thể lấy một mặt mà giải.
– Khởi Tín Sao nói: “Ép chặt trụ đàn mà lên dây, toàn là ngu, ôm cây đợi thỏ, chẳng phải kẻ trí; chỉ nên tin mà tu trì sẽ mau đắc đạo quả. Nếu chẳng có lòng tin, thì luống uổng công chẳng ích gì.”
– Kinh Đại Bi Tâm Đà–ra–ni nói: “Tụng trì thần chú thì tất cả mọi sự mong cầu đều được kết quả toại nguyện, chỉ trừ đối với thần chú mà sanh lòng nghi. Nếu có sanh nghi không tin, trong trăm vạn kiếp luống uổng công khó nhọc mà chẳng gần được Tam bảo.”
– Các kinh trong Mật Tạng thường nói: “Kẻ hành giả đối với Chơn Ngôn, trong bốn oai nghi, có vô lượng Thiên Long, Bát bộ chúng, Kim Cang Thiện Thần thường theo gia hộ.”
– Kinh Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà–ra–ni nói: “Tụng trì Đarani là Vô úy tạng, Long Thiên, Thiện Thần thường theo gia hộ. Nếu như pháp tụng chú, tức có tất cả Thiện Thần, Long Vương, Kim Cang Mật Tích thường theo hộ vệ không xa lìa hai bên người trì chú như giữ gìn đôi tròng con mắt, như hộ mạng mình…
Người trì chú, hoặc ở núi non đồng vắng, ngủ riêng một mình, các Thiện Thần sẽ thay nhau ngủ nghỉ để bảo vệ trừ sạch tai chướng. Nếu gặp giặc, trận đánh, trộm cướp, trốn lạc qua nước khác, Thiện Thần, Long Vương sẽ dẫn dắt về chỗ cũ. Nếu ở nơi núi rừng, đồng vắng, nước lửa thiếu thốn, Long Vương ủng hộ hóa ra nước lửa, cho nên có bài kệ: “Long Thiên Thánh chúng đồng từ hộ, trăm ngàn tam muội đốn huân tu.”[89]
– Kinh Đại Phật Đảnh Đarani nói: “Giả sử có chúng sanh nơi tâm tán loạn, miệng vẫn tụng thần chú, thường được tám vạn bốn ngàn na–do–tha,[90] hằng hà sa cu–chi[91] Kim Cang Tạng Vương Bồ Tát chủng tộc mỗi mỗi đều có các Kim Cang chúng làm quyến thuộc, ngày đêm thường theo hộ vệ người này. Dù có Ma Vương phương tiện rình tìm người kia, cũng không thể được. Các tiểu quỷ thần xa lánh kẻ thiện nhơn này ngoài mười do tuần. Nếu quyến thuộc của ma muốn rình tìm đến xâm nhiễm, nhiễu hại kẻ thiện nhơn, các chúng Kim Cang lấy chày đập nát đầu, nhỏ như hạt bụi; năng khiến người này việc làm như nguyện.” Cho nên có bài tụng: “Tám vạn bốn ngàn Kim Cang chúng; đi, đứng, nằm, ngồi đều theo hộ thân.”
Mật bộ các kinh đều rộng nói hộ trì cho người tụng chú. Muốn biết rõ thêm, xin xem trong Tạng giáo.
THỨ TÁM: KHIẾN PHÀM ĐỒNG PHẬT NHƯ LAI QUY MẠNG.
Người hành giả trì tụng thần chú Chơn Ngôn, khi khóa số đã mãn, thì ba nghiệp do thân, khẩu, ý, làm ra trong đời, dù là thiện nghiệp hay ác nghiệp, đều sẽ biến thành pháp môn vô lậu công đức.
– Bạch Tán Cái Tụng nói rằng: “Tụng xong một vạn tám ngàn biến, biến biến nhập nơi Vô tướng định; tên thành Kiên Cố Kim Cang Tràng Tự Tại,[92] được gọi là Phật giữa loài người. Dù cho mắng chửi, chẳng lấy làm lỗi, chư Thiên vẫn nghe tiếng thành ra tiếng Phạn Âm.”[93]
– Kinh Đại Bi Tâm Đà–ra–ni nói: “Tụng trì Đarani ấy, trong miệng nói ra lời gì, hoặc thiện hay ác, tất cả Thiên Long nghe đều là Pháp âm thanh tịnh.” Lại còn có bài kệ:
“Thí như thuốc linh đơn
Điểm sắt thành vàng báu
Tụng trì Đarani
Biến phàm thành Thánh hiền.”
– Kinh Biến Sớ có nói: “Chơn Ngôn hành giả năng khiến ba nghiệp giống như ba nghiệp của Bổn Tôn.”[94] Cho nên mười phương thế giới các Đức Như Lai hộ niệm cho người trì chú vậy (Phật Đảnh Tụng).
THỨ CHÍN: ĐẦY ĐỦ THA LỰC, TỰ LỰC, HIỆN THÀNH BỒ ĐỀ.
Trong Hiển Giáo có Tự lực[95] và Tha lực.[96] “Thập Trụ Luận” và “Niệm Phật Cảnh” có nói:
1. Tự Lực Môn: Nghĩa là tu Lục độ hết thảy muôn hạnh,[97] gọi là khó hành đạo, như người đi bộ xa ngàn dặm thì phải đến chậm.
2. Tha Lực Môn: Các pháp môn niệm Phật gọi là dễ hành đạo, như người đi đường thủy xuôi thuyền, thuận gió thì được đến mau.
Nay trong Chơn Ngôn Bí Mật thần chú, đầy đủ cả hai lực Tự và Tha.
– Kinh Đại Thừa Bảo Trang Nghiêm Vương và các kinh có nói: “Hành giả Chơn Ngôn, ngày ngày được đầy đủ Ba–la–mật, viên mãn công đức.”
– Phật Đảnh Tụng nói: “Không trì trai mà gọi là trì trai, không trì giới mà xưng là trì giới… Khi nghe Phật Đảnh Đarani liền được Cụ túc Thanh Văn giới.”[98]
– Phật Đảnh Sớ nói: “Hạnh môn Bồ Tát tùy hành thời đủ; nay không thành tựu mà tự đủ; là nhờ sức của thần chú có đầy đủ muôn hạnh; lời nói không sai.”
– Kinh Mạt Pháp Trung Nhất Tự Chú nói: “Sau khi diệt độ, Ta biến thân làm chú này” v.v… tức là Tha lực môn.
– Kinh Đại Bảo Quảng Bác nói: “Ta từ nơi vô lượng cu–chi trăm ngàn kiếp, tuy hành khổ hạnh mà không được Bồ Đề, nhờ có vừa nghe Đarani, thì tăng thêm hạnh tương ứng, liền thành Chánh giác.”
– Ngũ Tự Đarani có bài tụng: “Chư Phật sức bổn thệ, hiện thành các việc Thánh,” và “Nếu họ chưa công đức, chỉ trong đời này liền được Bồ Đề, không cần lao nhọc, tấn tu nhiều kiếp.”
– Thần Biến Sớ nói: “Xét Đarani làm đại bất tư nghì thừa, thành Phật thần thông”[99] có nghĩa là y các món khác để tu thành Phật, như cỡi dê ngựa, đi ngàn dặm đường, qua thời gian rất lâu mới đến. Y Đarani môn để tu, như cỡi thần thông đi ngàn dặm đường, móng ý[100] liền đến nơi. Chỗ đến tuy không khác, nhưng chỗ phương pháp có chậm mau. Lại như các môn thành Phật như mài vàng đá lấy ngọc Như Ý, tu theo Chơn Ngôn thành Phật như sức thần thông lấy ngọc Như Ý.
– Thần Biến Sao còn nói: “Các vị Bồ Tát vì cầu Bồ Đề, tuy tu các khổ hạnh khó làm, như sự cứu lửa cháy đầu, trải qua vô lượng kiếp còn không được thành tựu, Chơn Ngôn hành giả nếu tu không thiếu pháp tắc thì chỉ trong đời này sẽ được thành công đắc chứng Bồ Đề. Ngoài ra “Đốn siêu[101] các địa vị, mau xa lìa phiền não ràng buộc, là vì nhờ chú thuật.”
– Đại Giáo Vương Kinh có nói: “Nếu không y bí mật khóa tụng tu hành, sẽ không thành công trọn vẹn ở cõi Vô Thượng Bồ Đề.”
THỨ MƯỜI: CHƯ PHẬT, NHƯ LAI THƯỢNG NÃI CẦU HỌC.[102]
– Đại Thừa Bảo Trang Nghiêm Vương Kinh nói: “Các Phật cũng cầu thần chú, huống nữa phàm phu không trì tụng sao?”
Lại nói: “Đức Quan Âm có sáu chữ Đại Minh Đarani, tất cả Như Lai đều không biết chỗ sở đắc kia; nhân vị Bồ Tát làm thế nào mà biết được”… đến nỗi nói: “Phật trên hoa sen đã thành Phật rồi, mới trải qua vâng thờ các Phật, để cầu sáu chữ Đại Minh này v.v…”
* Hỏi: Phật có đủ trí, đâu không biết Đarani đó ư?
* Đáp: Có ba dụng ý.
1) Tiêu biểu Đarani này là thù thắng thâm sâu, khiến tôn trọng. Như trên đã nói Phật không biết mà tự cầu đó.
2) Phật trong Quyền giáo[103] như A-la-hán hay Bích Chi Phật không thể biết được Viên tôn mật chú,[104] như Tiểu Thừa cực quả[105] không hay biết được pháp thâm sâu của Đại Thừa.
3) Mật Tông thần chú: Tức thể lại là Viên viên quả hải,[106] cho nên Phật không đắc được. Như Thích Đại Thừa Luận: “Viên viên quả hải Phật cũng không đắc được.”
* Hỏi: Vì sao chư Phật không đắc được Viên viên quả hải?
* Đáp: Viên viên quả hải là pháp bổn tánh,[107] tiêu biểu chẳng phải Phật tu nhơn[108] đoạn chướng[109] mà được; lại tiêu biểu ra ngoài nhân quả vậy. Vì thế nên nói chư Phật không được mà tự cầu đó. Ngài Hiền Thủ nói: “Tánh đức quả hải, tức là thập Phật cảnh giới vậy.”[110]
Mười Môn từ trước đến đây là lược bày Mật Bộ, y tận kinh điển,[111] chẳng phải riêng do kẻ nào mà hay biết được mật chỉ. Những bậc bác học thượng trí, xét kỹ nơi đây mà rõ.
[1] Tam Tạng Pháp Sư: Danh hiệu cho những cao tăng tinh thông ba tạng kinh điển (Kinh, Luật, Luận) của Phật Giáo.
[2] Sắc chỉ: Ra chiếu chỉ, ra lịnh.
[3] Đarani: (DHĀRAṆĪ, Đà–la–ni, đà–ra–ni) Cũng được gọi theo nghĩa là Tổng trì, có nghĩa là thâu nhiếp tất cả. Đarani là câu kinh ngắn mang sức mạnh siêu nhiên. Thông thường Ðà–la–ni dài hơn Man–tra (chú).
[4] Chúc lụy: Chúc nghĩa là dặn dò, phó thác. Lụy nghĩa là gánh vác sự vất vả phiền lụy. Chúc lụy là giao phó, dặn dò cho người khác gánh vác, gìn giữ và phát huy.
[5] Môn: Môn học, học phái, loại, thứ, ngành.
[6] Viễn ly: Tránh xa, xa lìa. Viễn ly quỷ thần: Tránh được nạn tai do quỷ thần gây ra.
[7] Phàm sở cầu sự giai bất tư nghì: Phàm mong cầu việc gì đều được thành tựu.
[8] U linh: Chỉ chốn tối tăm, âm cảnh, cõi chết.
[9] Giáo hạnh: Hướng dẫn và ứng xử; Giảng dạy, thực hành và thực hiện nó.
[10] Tứ Chúng: Bốn hạng đệ tử hình thành nên giáo đoàn Phật Giáo, gồm Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, Ưu Bà Tắc (nam cư sĩ), Ưu Bà Di (nữ cư sĩ). Hay chỉ cho bốn chúng xuất gia là Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, Sa–di và Sa–di ni. Hay chỉ cho bốn chúng là người, trời, rồng và quỷ…
[11] Dị tu: Các cách tu hành khác nhau.
[12] Thủ hộ: Người trông nom, bảo hộ, giữ gìn.
[13] Quy mạng: Quy mệnh, nương theo, thuận theo, quy y.
Linh phàm đồng Phật Như Lai, quy mạng môn: Khi lâm chung, linh hồn sẽ được về với cõi Phật.
[14] Cụ: Có đủ, đầy đủ. Cụ tự tha lực: Đầy đủ sự tự lực và tha lực.
[15] Hiện thành: Việc thành tựu đã sẵn sàng.
[16] Thượng nãi cầu học: Sửa soạn hành trang lên đường cầu học.
[17] Thế lực tự tại: Có nghĩa là quyền lực được vững bền, không bị ngoại xâm hay nội loạn làm lay chuyển.
[18] Cơ cẩn: Đói kém, mất mùa.
[19] Phong nhiêu: Phong phú, phì nhiêu.
[20] Sở nguyện viên thành: Điều hằng mong muốn, nguyện vọng riêng được thành tựu viên mãn.
[21] Nhiễu não: Quấy nhiễu khiến phiền não bất an.
[22] Tinh tú biến quái: Các chòm sao biến đổi gây điềm lành, dữ.
[23] Hoạnh tử: Cái chết không chính đáng, chết xấu, chết do nạn tai.
[24] Tối thắng: Tối thượng, vượt lên trên tất cả, chế ngự tất cả, vĩ đại nhất…
[25] Tổng trì: Tổng là bao gồm tất cả pháp, trì là nắm giữ tất cả nghĩa. Tổng trì là thâu tóm, nắm giữ trọn vẹn tất cả pháp nghĩa. (Xem thêm Đarani)
[26] Bảo xử: Chày kim cang, còn gọi Kim cang xử. Nguyên là binh khí của Ấn Ðộ thời xưa, được làm bằng chất liệu cứng, hay đâm thủng các vật khác. Mật tông dùng nó để biểu thị trí cứng chắc, sắc bén.
[27] Linh: Cái chuông để lắc khi cúng.
[28] Bạt: Loại nhạc cụ có hai cái chập cheng, chập chả.
[29] Ngũ vô gián: Còn gọi Ngũ nghịch, là năm tội nặng nhất: Giết cha, giết mẹ, giết A-la-hán, làm thân Phật chảy máu và chia rẽ tăng đoàn.
[30] Cây A–lê: Loại cây ăn trái sanh sản ở các vùng Lĩnh Nam (Trung Quốc), bán đảo Trung Nam, Ấn Độ v.v… Thân cây giống như cây dâm bụt, lá dài và nhọn, hoa màu trắng, kết quả vào đầu mùa thu, quả hơi tròn như quả trứng, màu vàng chanh, dùng làm thuốc chữa được nhiều loại bịnh.
[31] Não hại: Làm phiền và làm hại.
[32] Tứ đại: Là bốn yếu tố đất, nước, gió, lửa. Phật Giáo hay dùng cụm từ “thân tứ đại” để chỉ cho cái thân xác bằng xương bằng thịt của con người.
[33] Túc nghiệp: Nghiệp đã tạo ở đời trước.
[34] Bạch Tán Cái (Bạch Tản Cái): Cái lọng trắng. Biểu trưng tịnh đức trong sạch đại từ, đại bi của Phật che mát tất cả chúng sanh.
[35] Túc tập: Là thói quen hay hành động của đời trước.
[36] Ái tâm vĩnh đoạn: Ái tâm là tâm trí đầy ham muốn, chấp trước. Vĩnh đoạn là vĩnh viễn cắt đứt. Ái tâm vĩnh đoạn nghĩa là cắt đứt tâm trí dục vọng, phiền não.
[37] A–la–hán: Theo Phật Giáo Nguyên thủy, danh từ A–la–hán là chỉ người đã hoàn toàn giác ngộ, không còn bị phiền não chi phối, thoát khỏi hoàn toàn luân hồi. A–la–hán tu tập nhằm giải thoát riêng mình.
[38] Bậc vô học: Quả vị cuối cùng trong Thanh Văn Thừa, quả vị A–la–hán.
[39] Quyến Sách: Còn gọi là Kim Cương Tác, Quyên Tác, Quyên Sách… . Đây là một loại dây dùng để chiến đấu hay săn bắt, tục gọi là dây treo, thòng lọng. Trong Mật Giáo, Quyến Sách là pháp khí dùng để giáo hóa những kẻ cứng đầu ương bướng và hàng phục bốn loài ma, là vật cầm trong tay của Bất Động Minh Vương, Bất Không Quyên Sách Quán Âm, Thiên Thủ Quán Âm và Kim Cương Tác Bồ Tát.
[40] Cử ý tùng tâm: Được như mong muốn, hợp với nguyện vọng.
[41] Do tuần: Đơn vị đo đường dài của Ấn Độ cổ đại. Người ta vẫn chưa nhất trí về chiều dài của một do tuần là bao nhiêu.
Theo thuyết của các học giả cận đại như ông J. Flect, do tuần tính theo cây số ngàn (kilometre) thì một do tuần xưa bằng 19,5 km; theo quốc tục Ấn độ là 14,6 km, Phật Giáo là 7,3 km; theo thuyết của ông Major Vost thì một do tuần xưa bằng 22,8 km, quốc tục Ấn độ là 17 km, Phật Giáo là 8,5 km.
Theo Đại Đường Tây Vực Ký, một do tuần xưa dài 20 km, căn cứ vào quốc tục Ấn Độ là dài 15km, theo Phật Giáo thì dài 8km.
[42] Nghi hối: Do quá nghi ngờ nên sau này thấy hối tiếc. Ngờ vực và sau đó hối hận.
[43] Thuốc dược nhĩ: Thảo dược, cây trồng làm thuốc trị bịnh.
[44] Trai giới: Ăn chay (trì trai) và giữ giới (trì giới), giữ mình cho trong sạch.
[45] Kiết giới: Xác lập ranh giới để hộ trì.
[46] Triền cấu: Triền là vây quấn, ràng buộc; Cấu là dơ dáy, bẩn thỉu. Triều cấu chỉ sự ô nhiễm, bất tịnh, xấu xa bủa vây.
[47] Tịnh tín: Sự tin tưởng vào Phật pháp, đồng thời tin vào khả năng giác ngộ của bản thân.
[48] Nhiếp thọ: Thâu nhận, chăm sóc, độ đến giải thoát.
[49] Cổ độc: Các loại tà thuật, độc dược. Quỷ mị: Ma quỷ.
[50] Hoạnh tử: Có nghĩa là không phải chết bình thường theo quy luật của già cả sanh bịnh rồi chết. Hoạnh tử là chỉ những cái chết xấu như chết cháy, chết chìm, chết do té từ trên cao, chết đói, chết do sét đánh, do bị rắn cắn hay thú rừng ăn thịt, chết vì bị kẻ khác giết,…
[51] Sổ châu: Chuỗi tràng hạt.
[52] Hùng hoàng, thư hoàng: Đây là những khoáng vật chứa lưu huỳnh, dạng tinh thể, có tính độc, có nhiều công dụng khác nhau.
[53] Sơ Địa: Quả vị thứ nhất trong mười quả vị tu chứng của Bồ Tát.
[54] Tiên phương: Thuốc tiên. Ngày xưa người ta tin rằng sau khi uống phương thuốc này có thể bay lên trời thành tiên.
[55] Tiên đức: Chỉ bậc tiền bối có đầy đủ đức hạnh.
[56] Tam Thừa: Là ba con đường tu trong Phật giáo: Thanh Văn Thừa (tu bằng cách nghe pháp, chứng quả A-la-hán, giải thoát cho mình), Duyên Giác Thừa (tu theo giáo lý Thập nhị nhân duyên, tự giác ngộ), và Bồ Tát Thừa (tu để tự mình chứng ngộ, sau đó giúp cho chúng sanh cũng đạt được giác ngộ, chứng quả vị Phật). Tuy khác nhau về căn cơ và mục tiêu gần, cả ba con đường tu này đều hướng đến giải thoát.
[57] Trì Minh: Tên khác của Đarani, hay Chơn Ngôn, thần chú.
[58] Dua mị: Nịnh nọt. Nịnh theo ý người.
[59] Thập địa Bồ Tát: Quả vị cuối trong mười quả vị tu chứng của Bồ Tát.
[60] Chiên đàn: Tên của một loại cây cao lớn, gỗ có hương thơm.
[61] Thắng hóa: Biến hóa một cách thù thắng, vượt lên trên những hiểu biết thông thường.
[62] Tam đồ: Ba con đường ác: Địa ngục, Ngạ quỷ và Súc sinh.
[63] Câu thơ này ý nói nếu ai vô tình mà vương phải một hạt bụi hay là đi chung với cái bóng của hành giả Chơn Ngôn thôi cũng đủ khiến cho thần thức của người đó được dạo chơi nơi Tiên cảnh. Nếu hành giả Chơn Ngôn rải một giọt nước xuống cũng đủ giúp cho linh hồn của con người thoát khỏi địa ngục.
[64] Lục hiệp: Sáu cõi đông, tây, nam, bắc và trên trời, dưới đất.
[65] Thâm tín: Tin tưởng sâu sắc.
[66] Thất niệm: Cũng gọi là Vong niệm. Nghĩa là tâm ý tán loạn, thiếu sự chú tâm, quên lãng, mất khả năng nhận biết.
[67] Ác bịnh triền: các bịnh mãn tính không thể trị dứt, thường hay tái phát nhiều lần.
[68] Phi phản tự hại: Bị các ác nghiệp đời trước kéo đến đòi nợ.
[69] Vô tận biện: Lo liệu đầy đủ, trù tính sẵn sàng, không thiếu sót điều chi.
[70] Thiện hữu: Người bạn lành, bạn tốt, chỉ chung những người giúp chúng ta sanh khởi các hạnh lành.
[71] Lục độ: Độ tiếng Phạn là Ba–La–Mật (Pãramitã) có nghĩa là vượt qua. Lục độ là sáu hạnh có thể đưa hành giả từ mê mờ qua giác ngộ, từ đau khổ qua cảnh giới an vui, từ sanh tử qua Niết Bàn. Lục độ gồm: Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định và Trí huệ.
[72] Tam học: Ba môn học của người theo đạo Phật: Giới (Tránh các nghiệp ác), Định (Thiền định, tỉnh giác trong mọi hành động), Huệ (Phát triển tâm Bát Nhã để ngộ được những hiểu biết một cách toàn triệt).
[73] Tổng hạnh: Là sự bao gồm tổng cộng hết tất cả những đức hạnh.
[74] Chi lưu: Nhánh nhỏ của một dòng sông, hoặc nhánh cây hoặc nhánh nhỏ trong cùng hệ thống.
[75] Vô Tướng Pháp Giới: Chỉ trạng thái tâm thức không bị dính mắc vào bất kỳ hình dạng nào, nhận thức được bản chất vô thường, huyễn hóa của vạn vật, và hướng đến giải thoát.
[76] Thiền Đức: Các bậc cao tăng tu thiền định.
[77] Vô tướng định môn là pháp môn thiền định diệt tất cả tâm tưởng.
[78] Viên tịch: Tròn đầy các đức, diệt hết các điều ác; Xa lìa cái khổ của sanh tử, đạt đến sự an lạc tịnh diệu.
[79] Quán chiếu: Dùng trí tuệ quán xét rõ ràng.
[80] Kim Cang định: Còn gọi Kim Cang Tam Muội. Người tu hành đắc phép thiền định này sẽ được trí tuệ bền vững, sắc bén và bất hoại như kim cương, có thể cắt đứt tất cả phiền não và tà kiến thiên lệch.
“Khai vô tướng môn viên tịch tông, tự tự quán chiếu Kim Cang Định” có nghĩa là bắt đầu tu hành theo pháp môn thiền định Vô Tướng, dần dần hành giả sẽ đạt chứng ngộ Kim Cang Tam Muội – là sự chứng ngộ của người trì thần chú Chơn Ngơn.
[81] Diệu chỉ: Giáo pháp siêu việt.
[82] Ma–ha–diễn: Nghĩa là “cỗ xe lớn.” Chỉ giáo pháp Đại Thừa.
“Du-già diệu chỉ truyền tâm ấn, Ma-ha-diễn hành tổng trì môn” có nghĩa là giáo pháp siêu việt của Du-già truyền tâm ấn, còn giáo pháp Đại Thừa mở rộng con đường cho người ta thực hành pháp môn trì thần chú Chơn Ngôn.
[83] Kinh tạng trì minh: Các bản kinh giảng về thần chú Chơn Ngôn.
[84] Tán thuật Thần Biến Chơn Ngôn: Khen ngợi phép biến hóa, tác động thần kỳ không thể nghĩ bàn của thần chú.
[85] Túc mạng thông: Năng lực thần thông biết được quá khứ kiếp.
[86] Có nghĩa là: Nhà sư Trí Giả nổi tiếng có thần thông soi căn biết quá khứ kiếp. Tuy ông tu theo phái thiền định, là một thiền sư, nhưng ông lại giảng dạy và hoằng truyền các nghi lễ và cách thức hành trì thần chú của Mật Giáo.
[87] Tôn khác: Tông phái khác.
[88] Nhiên hậu: Rồi sau, rồi mới.
[89] Đốn huân tu: Dẫn dắt, thúc đẩy công đức tu hành.
[90] Na–do–tha: Con số đo lường rất lớn, có nơi nói là một vạn ức, lại có nơi nói là một ngàn ức, hoặc một ngàn vạn ức, nên hiểu đây là sự tượng trưng cho một con số rất lớn.
[91] Hằng hà sa cu–chi: Hằng hà sa nghĩa là cát sông Hằng. Cu chi, hoặc gọi Câu chi, là tên gọi số lượng của Ấn Độ, qua các đời dịch ra có khác nhau: một là mười vạn, hai là trăm vạn, ba là ngàn vạn.
[92] Kiên Cố Kim Cang Tràng Tự Tại: Hàm ý thể hiện năng lực tâm linh vô song, trí tuệ sắc bén và sáng ngời như kim cương, đức tin vững chắc như cột trụ không thể bị lay chuyển, đạt được tự do tự tại không vướng bận.
[93] Phạn Âm: âm thanh của ngài Phạm Thiên (BRAHMA) – là đức Thượng Đế trong văn hoá Ấn Độ Giáo.
[94] “Chơn Ngôn hành giả năng khiến ba nghiệp giống như ba nghiệp của Bổn Tôn” có nghĩa là Chơn Ngôn thần chú có khả năng biến các nghiệp do hành động, lời nói và suy nghĩ gây ra trở thành nghiệp của mười phương chư Phật.
[95] Tự lực: Tự dựa vào năng lực của chính mình, dựa vào nỗ lực của bản thân để tu tập đạt giác ngộ
[96] Tha lực: Dựa vào sự gia hộ, che chở, dẫn dắt của Chư Phật, chư Bồ Tát để tu tập đạt giác ngộ.
[97] Tu Lục độ hết thảy muôn hạnh: Tu theo pháp môn Lục độ
(gồm sáu hạnh: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ) và tất cả hằng hà sa số các hạnh khác của Phật Giáo.
[98] Cụ túc Thanh Văn giới: Giới luật đầy đủ, trọn vẹn của cảnh giới Thanh Văn.
[99] “Xét Đarani làm đại bất tư nghì thừa, thành Phật thần thông” có nghĩa là Chơn Ngôn thần chú là một phương tiện vĩ đại không cần bàn cãi, có thể giúp cho người tu đắc thành Phật và có thần thông.
[100] Móng ý: Vừa khởi phát ý nghĩ.
[101] Đốn siêu: Đạt được giác ngộ một cách đột ngột, nhanh chóng.
[102] Ý nói Chư Phật Như Lai còn phải tìm cầu để học
[103] Quyền giáo: Giáo pháp phương tiện tạm thời. Phật vì thích ứng mọi căn cơ của chúng sanh mà thiết lập giáo pháp quyền xảo làm phương tiện để giáo hóa chúng sanh, chuẩn bị cho thực giáo.
[104] Viên tôn mật chú: Thần chú tối thượng thừa
[105] Tiểu Thừa cực quả: Quả vị cao nhất trong Tiểu Thừa Phật Giáo.
[106] Viên viên quả hải: Viên quả là cứu cánh viên mãn. Hải là biển.
Viên viên quả hải là cảnh giới viên mãn tột cùng, đầy đủ tất cả đức hạnh, đức năng, trí huệ thâm sâu quảng đại như biển lớn.
[107] Pháp bổn tánh: Bản chất thật vốn có của mọi sự vật và mọi chúng sanh.
[108] Tu nhơn: Tu thân theo các tiêu chuẩn đạo đức của xã hội loài người.
[109] Đoạn chướng: đoạn tuyệt với các chướng ngại.
[110] Đoạn này ý muốn nói Viên viên quả hải là Chơn Lý siêu việt tột đỉnh, Phật cũng không thể tự mình chứng đắc được chỉ bằng cách tu hành theo các phương cách hay tiêu chuẩn đạo đức của xã hội loài người; cũng không thể tự mình chứng đắc được Viên viên quả hải qua việc đã đoạn tuyệt với các chướng ngại trong tu hành. Muốn chứng đắc được Viên viên quả hải chỉ có thờ nhờ vào cầu xin được ban cho Đarani.
[111] Y tận kinh điển: Trích dẫn các lời dạy trong kinh sách một cách y nguyên bản chánh không thêm thắt sửa chữa
Bài Viết Liên Quan
PHẦN 5 – KHƯƠNG THƯỢNG XUỐNG NÚI
Thượng Đế có lệnh truyền cho ông Nguyên Thỉ xét ông hiền, ông dữ và thực hiện bảng Phong Thần....
Bài Pháp Số 10: Đại Bồ Tát Duy Ma Cật Khai Thị Cho Bồ Tát Di Lặc
Bồ Tát Di Lặc (Maitreya) là vị Bồ Tát của Từ Bi, được Phật Thích Ca thọ ký sẽ trở...
CHƯƠNG I: V – Đàn Pháp (PHẦN 5/6)
V. ĐÀN PHÁP MANDALA có nghĩa là Đàn hay Đạo Tràng, rắc rối hơn nhiều. Trong kinh Đại Nhựt, Kim...
Bài 147: Để đời được hanh thông
Con ơi nhớ lấy thời gian Một ngày ai cũng bằng chang số giờ Khác nhau ở chỗ biết xài...
LINH XĂM ĐỨC THÁNH TRẦN HƯNG ĐẠO – QUẺ SỐ 16
QUẺ SỐ 16 – THƯỢNG THƯỢNG TRIỆU Thừa dư tế nhân. DỊCH Cưỡi xe giúp người. TỔNG THI Phúc điền...
Xăm Quan Thánh 21
Xăm Quan Thánh 21: Hạ Hạ 第二十一号簽 下下與君夙昔結成寃今日相逢那得緣好把經文多諷誦祈求户內保嬋娟碧仙注但凡謀事要心機只怕中間有病危財物交加終到底更憂人口得傷悲 Âm: Dữ quân túc tích kết thành oan,Kim nhặt tương phùng na...
Bài 123: Tu mau kẻo trễ
Tu đi con, kẻo muộn rồi Thời gian lặng lẽ chẳng chờ một ai. Ngày nay chưa thấy chông gai,...
Đôi Hàng Về Thầy Già
Già được đệ tử báo cáo trang web của quý vị thường có các cuộc trao đổi về các mối...