II. ADHISTHANA
Hán văn thường dịch là Thần Lực, Uy Lực hay Gia Trì Lực. Nó là năng lực, ý lực, tâm lực ở nơi một nhân cách lớn, người hay trời. Khi còn ở trên bình diện Trí (JNANA), thế giới không có vẻ thực chút nào, bởi vì hiện hữu hư huyễn của nó mà trí soi thấu quá đậm màu sương khói. Nhưng khi tiến tới khía cạnh ADHISTHANA của Bồ Tát Đạo[1] chúng ta cảm thấy dường như mình đang nắm chắc cứng và vững. Đây là chỗ mà đời sống thực sự bắt đầu có ý nghĩa. Sống không còn là nhận định mù quáng của một thúc bách ban sơ[2] vì ADISTHANA là một biệt danh của PRANIDHANA (Nguyện), hay nó chính là sức mạnh tâm linh tuôn ra từ “Nguyện” cùng với “Trí” tạo thành tinh thể của Bồ Tát Đạo. Sức gia trì không phải chỉ là sức mạnh muốn tự củng cố để loại ra những cái không phải nó. Đằng sau nó luôn luôn có một vị Phật hay một vị Bồ Tát có con mắt tâm linh soi thấy bản chất của vạn hữu[3] và đồng thời có chí nguyện hộ trì nó. Chí nguyện hộ trì chính là tình thương yêu và lòng hoài bão cứu vớt thế gian khỏi những mê hoặc và ô nhiễm. PRANIDHANA (Bản Thệ) là chí nguyện, là tình yêu, là hoài bão, được gọi là Vô Tận Tạng (AKSAYA).[4]
Trí và Nguyện là những yếu tố thiết định[5] Bồ Tát Đạo hay Phật Đạo. Nhờ Trí, chúng ta như leo lên đỉnh trời Tam Thập Tam Thiên,[6] rồi khi ngồi trầm mặc mà quán sát hạ giới và những hành vi của nó, thấy chúng tợ hồ như những đám mây chuyển động dưới chân mình, chúng là những khối quay cuồng của vọng động, nhưng không đụng chạm đến kẻ đang ngồi ở bên trên.
Thế giới của Trí thì trong sáng và vĩnh viễn an lành. Nhưng Bồ Tát không trụ mãi trong cảnh trầm mặc thiên thu ở bên trên cái thế gian mà có đầy dẫy những sai biệt nên mới có những phấn đấu và đau khổ. Bởi vì tim của Ngài đau đớn khi nhìn cảnh tượng này. Bấy giờ Ngài quyết định bước xuống giữa những giông tố của cuộc đời. Bản nguyện[7] (PRANIDHANA) đã lập, uy lực (ADHISTHANA) của Ngài được gia[8] cho những ai hướng về Ngài, và mọi phương tiện (UPAYA)[9] được tạo ra để dựng đứng dậy những ai cắm đầu vào trong mông muội[10] và bị đắm chìm trong cảnh khống chế tột cùng.[11] PRANIDHANA như là một khía cạnh của ADHISTHANA, như thể là cái thang dẫn xuống, hay sợi dây nối liền giữa Bồ Tát (BODHISATTVA) và chúng sanh (SARVASATTA).
Từ đó sinh ra hóa thân (NIRMANAKAYA), một thuật ngữ mà trong nhiều kinh điển Đại Thừa cũng gọi là VIKURVITA, tức Trang Nghiêm Thần Biến.[12]
Gia trì được nhắc đến trong “GANDAVYUHA” hay “AVATAMSAKA” cả hai được hiểu chung là “HOA NGHIÊM KINH” ở Trung Hoa. Theo truyền thuyết, kinh được nói lúc Phật thâm nhập thiền định ngay sau khi vừa thành đạo. Bản Phạn GANDAVYUHA tường thuật kỹ cuộc hành trình của Thiện Tài Đồng Tử (SUDHANA), dưới sự chỉ đạo của Bồ Tát Văn Thù. Thiện Tài đi cầu đạo vô thượng,[13] trải qua từ vị thầy này đến vị thầy khác có trên năm mươi vị lãnh đạo tinh thần, mục đích là học Bồ Tát Hạnh.[14] Sau cùng khi Thiện Tài khẩn cầu Bồ Tát Di Lặc (BODHISATTVA MAITREYA) giảng dạy cho, Bồ Tát tán dương Thiện Tài đã có quyết tâm tìm cầu đạo lý cứu cánh[15] của Phật pháp.
Bồ Tát Di Lặc mở cửa lầu các “Tỳ Lô Trang Nghiêm” bằng cách khảy móng tay, Thiện Tài hết sức hăm hở bước vào. Được gia trì bởi uy lực của Bồ Tát Di Lặc, Thiện Tài thấy một quang cảnh hiện ra trước mắt. Lạ thay! Lầu các rộng rãi bao la cũng đồng như hư không. Mặt đất được lát bằng vô số cẩm thạch đủ loại và ngay giữa lầu các có vô số cung điện làm bằng bảy báu.[16] Lại có vô số phướn, lộng, lưới, màn buông.
Có vô số chuông, hoa, chim, cây báu…tất cả đều cực kỳ trang nghiêm. Trong lầu các, cũng huy hoàng tráng lệ như lầu các chính. Ở đây, không có gì cản trở lầu các này hỗn nhập lầu các nọ, riêng và chung, hỗn giao toàn diện. Một lầu các bao hàm tất cả và tất cả bao hàm một. Thiện Tài còn tự thấy mình có trong tất cả các lầu, đồng thời thấy đủ các cảnh giới tự tại[17] bất khả tư nghì[18] về cuộc đời của Bồ Tát Di Lặc. Tức là thấy Bồ Tát Di Lặc vừa mới phát tâm cầu chứng Vô Thượng Bồ Đề…chứng các Trụ Địa,[19] được Như Lai thọ ký[20] cho Vô Thượng Bồ Đề lúc nào và ở đâu. Thiện Tài lại thấy trong mỗi lầu các, Bồ Tát được một vị thế giới chủ[21] khuyến thỉnh[22] dìu dắt hết thảy chúng sanh tu hành thập thiện[23], được một vị hộ thế[24] khuyến thỉnh làm lợi ích cho hết thảy chúng sanh; được Đế Thích (SAKRA)[25] khuyến thỉnh quở trách những bản năng khát dục của chúng sanh; được Phạm Thiên[26] khuyến thỉnh mà tán dương vô lượng phước báo của hạnh thiền định; được trời Dạ–ma (YAMA)[27] khuyến thỉnh mà tán dương vô lượng phước báo của hạnh nhiếp tâm,[28] được trời Đâu Suất (TUSITA) khuyến thỉnh mà tán dương các công đức của Bồ Tát sẽ thành Phật trong một đời nữa; được trời Hóa Lạc (NIRMITA) khuyến thỉnh mà hiện các biến hóa thân cho Thiên chúng thấy; được trời Tha Hóa Tự Tại (VASAVARTIN)[29] khuyến thỉnh mà diễn thuyết Phật Pháp cho những chư Thiên tùy tùng. Thiện Tài thấy, hoặc Bồ Tát Di Lặc hiện thân làm Ma Vương[30] mà thuyết hết thảy các pháp đều vô thường; hoặc vì Phạm Vương[31] mà thuyết thiền định, vô lượng hỷ và lạc; hoặc vì A–tu–la (ASURA)[32] mà lặn vào biển Đại Trí để biết rằng hết thảy pháp vốn như huyễn,[33] giảng cho A–tu–la vương và quân đội A–tu–la hãy đoạn trừ hết thảy kiêu mạn, cuồng ngạo và say sưa. Hoặc Bồ Tát phóng Đại Quang Minh[34] vào cõi chết để cứu vớt chúng sanh khỏi các khổ não của địa ngục; hoặc thấy Bồ Tát ở thế giới ngạ quỷ bố thí các ẩm thực để cứu rỗi sự đói khát của chúng ngạ quỷ; hoặc thấy Bồ Tát trong cõi súc sanh đặt đủ các phương tiện để điều phục chúng. Hoặc thấy Bồ Tát giảng pháp cho chúng hội chư Thiên ở trong các cõi trời Hộ Thế, trời Đâu Suất, trời Dạ Ma, trời Hóa Lạc, trời Tha Hóa Tự Tại và trời Đại Phạm; giảng cho các chúng hội Long Vương (NAGA),[35] Dạ–xoa (YAKSA),[36] La–sát (RAKSA),[37] Càn–thát–bà (GANDHARA),[38] A–tu–la (ASURA), Ca–lâu–la (GARUDA),[39] Khẩn–na–la (KINNARA),[40] Ma–hầu–la–già (MAHARAYA),[41] Nhân (MANUSYA)[42] và Phi nhân.[43]
Hoặc thấy Bồ Tát giảng pháp cho các chúng hội Thanh Văn (SRAAVAKA),[44] Duyên Giác (PRATYEKABUDDHA),[45] Bồ Tát (BODHISATTVA) từ mới phát tâm cho tới địa vị cứu cánh.[46] Hoặc thấy Bồ Tát Di Lặc cùng với các Bồ Tát sẽ thành Phật trong một đời nữa, tán dương môn Quán Đảnh (ABHISEKHA) của hết thảy chư Phật. Lại thấy Bồ Tát nhập Tam Muội[47] mà thị hiện các năng lực thần biến.[48] Thiện Tài lại thấy một tòa lầu các đặc biệt cao rộng và trang nghiêm huy hoàng nhất, tráng lệ vô song, ở giữa hết thảy những tòa lầu các được nhìn thấy bên trong lầu các Tỳ–lô–giá–na. Trong tòa lầu các vô tỉ[49] này, Thiện Tài thấy cả tam thiên thế giới trong chớp mắt, gồm cả trăm ức cõi trời Đâu Suất (TUSITA) và trong mọi thế giới đó lại thấy Bồ Tát Di Lặc giáng trần đản sanh. Đế Thích, Phạm Thiên và các thiên thần đang kính lễ Bồ Tát…Thiện Tài lại thấy có vô số Bồ Tát trong vô số thế giới, đang đi hay ngồi, đang làm các công việc, đang mở rộng lòng từ bố thí, đang viết các luận làm lợi ích chúng sanh, đang thọ trì các luận với sư trưởng, đang hộ trì các luận cho những thế hệ tương lai, đang sao chép, đang tụng đọc, đang hỏi, đang sám hối mỗi ngày ba thời và đang hồi hướng phước báo cho giác ngộ, hoặc đang lễ bái vì hết thảy chúng sanh…Lại thấy vô số mặt trời, mặt trăng, tinh tú, đủ loại tinh hà, sáng tỏ cả mười phương.
Lại thấy Bồ Tát Di Lặc, như đã từng tu các hạnh Bồ Tát trong quá khứ, hoặc thấy bố thí thân hay hết thảy sở hữu. Ngài giải thoát những ai bị giam giữ trong tù ngục, Ngài cởi thả những ai bị trói buộc, Ngài chữa trị những bịnh tật, dắt dẫn những ai lạc lối đến con đường thẳng. Khi làm thuyền trưởng, Ngài giúp mọi người vượt qua biển cả. Khi làm phu xe, Ngài đưa mọi người qua những hiểm nạn; khi làm một Đại Hiền Triết, Ngài giảng đủ các luận; khi làm một hoàng đế, Ngài tu hành thập thiện và khuyến dạy mọi người cùng hành theo; khi còn là một y sĩ, Ngài cứu chữa đủ các chứng bịnh. Đối với cha mẹ, làm một người con hiếu, đối với bằng hữu làm một người bạn trung tín.
Sở dĩ Thiện Tài được thấy vô số những thần thông biến hóa bất khả tư nghì vì nhờ được ban cho con mắt thanh tịnh của Bồ Tát đã vào Sơ địa và nhất là nhờ năng lực gia trì của Bồ Tát Di Lặc.
Như vậy theo thuật ngữ của Phật Giáo Đại Thừa, gia trì lực là năng lực bí mật phát khởi từ Chư Phật và Chư Tôn Bồ Tát có thể được bộc lộ qua thân, khẩu, ý của chúng sanh bằng các phương tiện dẫn độ của Mật Giáo: Phép Quán Đảnh. Nhờ phép bí nhiệm[50] này, chúng sanh sẽ lần lượt biết được cảm ứng toàn vẹn của Đức Phật và từ đó chúng sanh đạt được kết quả “Phật trong ta, ta trong Phật” và chúng sanh mới có thể tu tập và chứng được Phật quả ngay nơi nhục thân này.
Thế nên Mật Tông cho rằng có đến hai loại giáo pháp: Hiển Giáo và Mật Giáo. Những lời dạy bảo của ứng và hóa thân như Đức Phật Thích Ca thì tùy theo căn cơ[51] của từng chúng sanh mà chỉ dạy lần. Đó tức là những pháp môn quyền thiệt[52] của Hiển Giáo. Còn Mật Giáo là những pháp môn mầu nhiệm, bí mật. Chỉ những vị Bồ Tát với trí tuệ sáng suốt mới cảm thông và thọ lãnh được với Pháp Thân Phật. Ngài Kim Cang Tát Đỏa là vị Bồ Tát đã nhờ vào phép “Quán Đảnh” mà thừa tiếp[53] được phép mầu nhiệm của Đức Đại Nhựt Như Lai.
[1] Bồ Tát Đạo: Con đường tu hành mà mục đích chính là lợi mình lợi người, giúp đạt được sự giác ngộ, thành tựu quả Phật.
[2] Thúc bách ban sơ: Các bản năng sanh tồn cơ bản nhất của con người: nhu cầu ăn uống, ngủ nghỉ, sanh sản và tự vệ.
[3] Vạn hữu: Muôn vật, vũ trụ.
[4] Vô Tận Tạng (AKSAYA): Tàng trữ vô biên vô tận không giới hạn. Vô Tận Tạng thường được dùng để chỉ công đức, trí tuệ và lòng từ bi của Phật và Bồ Tát là vô tận, không bao giờ cạn kiệt và không thể bị phá huỷ.
[5] Thiết định: Thiết lập, xác định.
[6] Tam Thập Tam Thiên: Là tầng trời có ba mươi ba cõi do Thần Đế Thích cai quản, còn gọi là Đao Lợi Thiên..
[7] Bản nguyện (bổn nguyện): Lời thệ nguyện, nguyện vọng ấp ủ từ lâu..
[8] Gia: Gia cố thêm, cho thêm vào, tăng thêm.
[9] Phương tiện (UPAYA): Còn gọi là phương tiện thiện xảo. Phương tiện có nghĩa là các phương pháp tiện dụng, các cách thức phù hợp với trình độ, căn cơ của chúng sanh mà Bồ Tát dùng để giáo hoá, hướng dẫn chúng sanh đi đến giác ngộ.
[10] Mông muội: Ngu dại, tối tăm, u mê
[11] Cảnh khống chế tột cùng: Là sự tham vọng (quyền lực, danh vọng, tiền tài…) một cách mù quáng và bất chấp hậu quả.
[12] Trang nghiêm thần biến: Thần thông, năng lực tạo ra các phép lạ.
[13] Đạo vô thượng: hay còn gọi là Đạo Vô Thượng Bồ Đề, chỉ sự giải thoát toàn diện, không chỉ cho bản thân mà còn cho tất cả chúng sanh. Đạo Vô Thượng Bồ Đề là trạng thái giác ngộ cao nhất trong Phật Giáo.
[14] Bồ Tát Hạnh: Là những hạnh nguyện và hành động của một vị Bồ Tát, hướng tới mục tiêu là tự mình đạt giác ngộ và cứu độ chúng sanh.
[15] Cứu cánh: Mục đích cuối cùng, giải thoát.
[16] Bảy báu: bảy món báu vật gồm bánh xe vàng; voi trắng; ngựa xanh; thần châu; ngọc nữ; cư sĩ; và chủ binh.
[17] Tự tại: ung dung tự do, không bị ràng buộc. Trong kinh điển Phật Giáo, từ này được dùng để chỉ cảnh giới cũng như năng lực vô biên của chư Phật và Bồ Tát vốn đã xa lìa sự ràng buộc của phiền não.
[18] Bất khả tư nghì: Bất khả là không thể, Tư là nghĩ suy, Nghì (nghị) là luận bàn. Bất khả tư nghì nghĩa là không thể nào suy nghĩ bàn luận ra được, không thể dùng ngôn ngữ, trí óc thông thường để diễn tả được.
[19] Trụ Địa: Nghĩa là “nơi trú ngụ”, “chỗ ở” hoặc “căn cứ” của phiền não. Trụ Địa là những trạng thái tâm lý tiêu cực, những thói quen xấu khiến con người bị cuốn vào và không thể giải thoát khỏi luân hồi. Chứng các Trụ Địa là hiểu rõ về phiền não và giải thoát khỏi phiền não.
[20] Thọ ký: Nói trước cho biết về những quả vị mà người tu sẽ được thành tựu trong tương lai.
[21] Thế giới chủ: vị Phật cai quản một cảnh giới, một thế giới trong muôn ngàn thế giới của vũ trụ này.
[22] Khuyến thỉnh: Chí thành cầu thỉnh chư Phật và Bồ Tát quang lâm.
[23] Thập thiện: Mười việc thiện gồm 1. Không sát sinh; 2. Không trộm cắp; 3. Không tà dâm; 4. Không nói dối; 5. Không nói lưỡi đôi chiều; 6. Không nói lời ác, lời thô tục, độc địa; 7. Không nói lời phù phiếm vô ích; 8. Không tham dục lạc, sắc, danh, lợi; 9. Không sân giận, buồn chán; 10. Không si mê, lầm lạc, nghiện ngập.
[24] Hộ thế: vị thần hộ pháp.
[25] Đế Thích (SAKRA): tên của một vị thần theo tín ngưỡng Ấn Độ Giáo. Trong Phật Giáo, Đế Thích là chủ của cõi Trời Đao Lợi.
[26] Phạm Thiên: Phạm Thiên là Thượng Đế – vị thần sáng tạo của vũ trụ này theo quan niệm của Ấn Độ Giáo. Tuy nhiên, Phật Giáo chỉ coi Phạm Thiên là chủ của một cõi trời.
[27] Trời Dạ–ma (YAMA): Đây là cõi trời của quỷ thần.
[28] Nhiếp tâm: Tâm chuyên chú vào một cảnh, tâm không bị tán loạn.
[29] Trời Đâu Suất (TUSITA), trời Hoá Lạc (NIRMITA), trời Tha Hóa Tự Tại (VASAVARTIN): các tầng trời trong cõi Dục. Chư thiên trong các tầng trời này sống trong sự hỷ lạc, vật chất sung mãn.
[30] Ma Vương: Còn gọi là Ma Ba Tuần, là vua của cõi Trời Tha Hoá Tự Tại.
[31] Phạm Vương: Trong Ấn Độ Giáo, Phạm Vương (BRAHMA) là Đấng Sáng Tạo, là Thượng Đế của vũ trụ. Tuy nhiên, Phật Giáo chỉ coi Phạm Vương (BRAHMA) là một vị vua cai quản cõi trời Sắc Giới.
[32] A–tu–la (ASURA): Nguyên gốc là ác thần trong thần thoại Ấn Độ cổ. Trong Phật Giáo, A–tu–la cũng là vị thần có tánh cách nóng nảy, bản tánh hiếu chiến. Nam thì hình dung xấu xa, nữ thì dung mạo rất đẹp.
[33] Như huyễn: Giống như huyễn hoặc, ảo ảnh, không có thiệt.
[34] Đại Quang Minh: Sự ánh chiếu, sự ứng hiện năng lực thần thông.
[35] Long Vương (NAGA): Vua loài rồng. Thường được dùng để chỉ các vị thần ở thủy giới như biển, sông, ao hồ.
[36] Dạ–xoa (YAKSA): Là các loài yêu thần, quỷ hung ác, thân hình xấu xí, ghê sợ, đi như bay trong không gian. Có ba loài dạ xoa, loài sống trên mặt đất, loài sống trong hư không và loài sống trên các cõi trời.
[37] La–sát (RAKSA): Loài hung thần ác quỷ, hình tướng và mặt mày rất ghê gớm, chuyên ăn thịt uống máu loài người.
[38] Càn–thát–bà (GANDHARA): Quỷ thần chuyên việc tấu nhạc ca hát phục vụ âm nhạc ở cõi trời Đế Thích, nuôi mình bằng mùi hương và thân hình tỏa ra hương.
[39] Ca–lâu–da (GARUDA): Còn được gọi là Kim Sí Điểu. Là một loài thần điểu, nửa người nửa chim.
[40] Khẩn–na–la (KINNARA): Nửa giống người, nửa giống thần, gọi là “nhân phi nhân” có tài tấu nhạc, có âm thanh mỹ diệu, giỏi múa hát, là nhạc thần của Đế Thích.
[41] Ma–hầu–la–già (MAHARAYA): Rắn thần, vua các loài rắn, cũng thuộc về Nhạc Thần, hình dáng mình người đầu rắn.
[42] Nhân (MANUSYA): Người, con người, loài người.
[43] Phi nhân: Danh từ chung chỉ cho những loài chúng sanh không thuộc loài người, như các loài Dạ-xoa, La-sát, Càn-thát-bà.
[44] Thanh Văn (SRAAVAKA): Những người nghe hiểu Phật pháp, tu hành theo Tứ Diệu Đế mà chứng quả vị cao nhất là A-la-hán.
[45] Duyên Giác (PRATYEKABUDDHA): Những bậc tu hành tự mình giác ngộ nhờ quan sát và suy tư đúng đắn mà thông đạt lý nhân duyên sinh, xuất hiện vào thời không có Phật và Phật pháp. Còn được gọi là Bích Chi Phật, Độc Giác Phật.
[46] Cứu cánh: Quả vị Phật cao nhất trong Phật Giáo Đại Thừa.
Địa vị cứu cánh có nghĩa đắc được Phật quả tối thượng.
[47] Nhập Tam Muội: Chỉ trạng thái đại định, tự tánh như như bất động, chuyên tâm ở một cảnh không tán loạn.
[48] Năng lực thần biến: Năng lực thần thông biến hiện ra các thứ hình tướng và vạn vật.
[49] Vô tỉ: Rộng lớn vô cùng, không gì sánh được.
[50] Bí nhiệm: Bí mật và mầu nhiệm.
[51] Căn cơ: Nền tảng, nền móng. Nghĩa rộng ra căn là gốc rễ, cội nguồn và cơ là cơ duyên. Có căn cơ là có gốc rễ tâm linh tốt.
[52] Quyền thiệt: Chỉ dạy tùy thuận theo hoàn cảnh thế tục, tư chất và phong tục của con người.
[53] Thừa tiếp: Tiếp nhận nối tiếp nhau.
Bài Viết Liên Quan
Xăm Quan Thánh 42
Xăm Quan Thánh 42: Trung Cát 第四十二号簽 中吉我曾許汝事和諧誰料修為汝自乖但改新圖莫依舊營謀应得稱心懷碧仙注只好從新莫舊依自然百事稱心懷莫愁中路無成就當遇舟航涉利津 Âm: Ngã tằng hứa nhữ sự hòa hài,Thùy liễu tu vi nhữ...
Bài 13: Ác Trận Trấn Yếm Việt Nam
Từ đời vua Lý đến Trần Qua kỳ Trịnh Nguyễn tranh phân hai đàng Trận đồ trấn yểm Nam bang...
Bài 37: Cảm Thán Ngày Đông
Hoa Kỳ đang lúc vào đông. Bốn bề trắng xóa, gió lồng khắp nơi Ngồi nhìn hoa tuyết buông...
Bài 91: Nỗi Khổ Ngày Tết
Ai bày cảnh Tết làm chi Khiến cho nhân thế một thì đảo điên Tết thường lắm chuyện luỵ phiền...
9. KINH HOA NGHIÊM
Kinh Hoa Nghiêm là bộ kinh đại thừa, là vua trong các kinh, với nội dung siêu việt tuyệt luân...
Xăm Quan Thánh 25
Xăm Quan Thánh 25: Trung Bình 寅午戌年多阻滞,亥子丑月渐亨嘉;更逢玉兔金鸡会,枯木逢春自放花。 Âm: Dần Ngọ Tuất niên đa trở ngại,Hợi Tý Sửu nguyệt tiệm hanh...
TẬP SAN MẬT PHƯỚC SỐ 15
TẬP SAN MẬT PHƯỚC SỐ 15 CÂU CHUYỆN TÂM LINH: Thế giới tâm linh của Hồ Cáp Ngô Duy Lâm...
Bài 1: Lệnh Tuyển Môn Đồ
Chư Thiên ban xuống mấy dòng: “Phổ truyền Huyền Bí Mật tông Phật quyền Những ai hữu phước hữu duyên...