V. ĐÀN PHÁP
MANDALA có nghĩa là Đàn hay Đạo Tràng, rắc rối hơn nhiều. Trong kinh Đại Nhựt, Kim Cang Thủ Bồ Tát hỏi: “Bạch Thế Tôn: sao gọi là MANDALA?” Đức Phật bảo: “Phát sanh chư Phật gọi là MANDALA, không chi hơn được, pháp vị[1] không chi sánh bằng gọi là MANDALA. Tiếng MANDALA thường không được phiên dịch, nhưng cũng có nơi phiên dịch là Đàn hoặc gọi là Luân Viên Cụ Túc.
Ở Tây Vực, khi tế trời, chỗ đất được dọn sạch sẽ và bằng phẳng nơi đó được gọi là Đàn. Chữ Đàn như vậy chưa diễn tả đủ ý nghĩa của chữ MANDALA của Mật Giáo vì nó còn thiếu nhiều nghi thức khác như Khế Ấn,[2] Tam Mật,[3] Tứ Trí[4] v.v… Còn chữ Luân Viên Cụ Túc có nghĩa là cái bánh xe, nó gồm luôn đầu trục, chốt, căm, vành, niền xe, lại còn thêm chữ “Cụ Túc” để chỉ “không chi hơn,” “pháp vị không chi sánh bằng.”
Như vậy, Luân Viên Cụ Túc diễn tả được đầy đủ ý nghĩa của chữ Phạn MANDALA. Nhưng người ta ít gọi là Luân Viên Cụ Túc vì nó quá dông dài. Vì những lý do vừa kể, chữ MANDALA ít khi được phiên dịch.
MANDALA có nhiều thể tướng[5] khác nhau. Kinh Đại Nhật nói có bốn loại MANDALA: Đàn vuông, đàn tròn, đàn tam giác, đàn hình bán nguyệt. Còn Kinh Kim Cang Đảnh thì nói có năm loại: Đàn tròn, đàn vuông, đàn tam giác, đàn hình hoa sen và đàn hình kim cang.
Theo Kinh Đại Nhựt thì đàn vuông phối hợp với Địa Đại; đàn tròn phối hợp với Thủy Đại, Không Đại; đàn tam giác phối hợp với Hỏa Đại; đàn bán nguyệt phối hợp với Phong Đại. Đàn vuông có nghĩa là bình đẳng vì tướng đất vuông. Đàn tròn có nghĩa là viên mãn vì hư không và nước tròn. Đàn tam giác có nghĩa là hàng phục vì tướng lửa bốc lên hình tam giác. Đàn bán nguyệt có nghĩa là diệt trừ tai nạn vì gió hay xô ngã các vật. MANDALA còn có nhiều danh gọi khác nhau nữa. Đàn tràng có những bức vẽ Chư Tôn, Bồ Tát cầm đao, kiếm, bánh xe… gọi là bình đẳng MANDALA. Đàn tràng có những tôn tượng do tô đắp, khắc chạm hoặc do đúc mà thành gọi là Sự Nghiệp Oai Nghi MANDALA. Đàn tràng có những chủng tử tượng trưng cho Chư Tôn bên tôn vị, gọi là pháp MANDALA.
Sở dĩ gọi là Đại MANDALA vì những tôn tượng đó do năm màu sắc chánh: Vàng, Trắng, Đỏ, Đen, Xanh theo thứ lớp phối hợp với ngũ đại là Đất, Nước, Lửa, Gió và Hư Không.
Gọi là Bình Đẳng MANDALA vì Chư Tôn tiêu biểu cho các loại hữu tình;[6] Đao, Kiếm, Bánh xe tiêu biểu cho loài phi tình.[7] Đây có nghĩa là ngũ đại: Đất, Nước, Gió, Lửa lan khắp Hư Không để thành lập các loại hữu tình và phi tình một cách bình đẳng.
Gọi là Sự Nghiệp Oai Nghi MANDALA vì những tượng do đúc hoặc chạm ấy thầm nói lên sự nghiệp và oai nghi của Chư Phật và Bồ Tát một cách sống động.
Gọi là Pháp MANDALA vì những chủng tử tự[8] của Chư Tôn có tánh cách quy tắc và quỹ trì.[9]
MANDALA hay Đạo Tràng như vậy là nơi thờ cúng, chú nguyện và tu hành của những tu sĩ Mật Giáo. Đạo Tràng thay đổi rất nhiều theo từng loại kinh điển và các nghi điển thần bí. Có lúc người ta đắp Đàn bằng đất trộn với bột hương thơm, có khi người ta vẽ những bức tranh rộng lớn, trên đỉnh thượng có hình Phật Đại Nhựt Như Lai, thứ nữa là vẽ hình của Chư Tôn Bồ Tát, tùy theo cấp bậc để thờ phượng.
Với Chư Tôn, Mật Giáo có thuyết giảng về quyền năng pháp thuật của riêng từng vị một.
Mỗi vị có tay Ấn, tay Quyết riêng biệt và đều được vẽ riêng rẽ trên mỗi bức họa để khi Pháp sư cầu cúng đến vị nào là cứ y theo kiểu vẽ mà ám tay Quyết. Có nơi dùng kính hình tròn, hình vuông… để làm Đàn Pháp.
Cảnh vật nơi cầu nguyện, tham thiền cũng dùng làm biểu hiệu để trợ lực và tiếp ứng cho nhà Đạo để đạt được sở nguyện. Cuộc đất, đền thờ, phương hướng, ngày giờ, y phục, màu sắc, thức ăn, đồ cúng, đồ chưng cũng có ý nghĩa và tác dụng linh thiêng đối với tâm ý nhà Đạo và tùy thuộc vào từng loại nghi điển.
Để dứt trừ những ảnh hưởng tội lỗi, lễ sám[10] được gọi là Tức Tai Pháp (SOKUSAIHO); để làm gia tăng hạnh phúc có Tăng Ích Pháp (ZOYAKOHO); để kêu gọi những quyền năng thiên có Câu Triệu (KUYO); để bẻ gãy những ác cảm của địch thủ và kẻ thù có Hàng Phục (GOFUKU); để cầu Phật và Bồ Tát gia hộ thì có Kính Ái Pháp (KYOAIHO); và để kéo dài tuổi thọ thì có Diên Mệnh Pháp (YEIMMEIHO). Tất cả những nghi quỹ[11] thần bí này được coi như hoàn toàn hiệu nghiệm mang lại những gì mà hành giả ước ao. Tóm lại tất cả những nghi quỹ nói trên là những biểu hiện cho ngôi thứ và sự xoay vần trong hoàn vũ[12] và ảnh hưởng đến cuộc đời ta. Dù vậy sự phức tạp của việc bài biện khi hành lễ có thể được giản dị hóa mà hành giả Mật Giáo vẫn đạt tới các sự anh linh[13] trong vũ trụ: đó là biết thể hiện hạnh đạo của mình cho phù hợp với nguyện lực của Trời Phật
[1] Pháp vị: Cũng gọi Phật pháp vị, hay Pháp trí vị. Pháp vị có hai nghĩa: Nghĩa thứ nhất là hương vị của diệu pháp. Với nghĩa này, ý muốn nói Phật pháp rất sâu xa, cao thâm, phải nghiền ngẫm một cách tinh tế mới thể nhận được và sinh ra an lạc. Nghĩa thứ hai, chữ vị được hiểu là vị trí, địa vị. Pháp vị ở đây muốn nói là địa vị trong các pháp.
[2] Khế Ấn: Theo nghĩa hẹp, chỉ các hình tướng của các Chư Tôn được vẽ ở trên đàn pháp. Nhưng theo nghĩa rộng, khế ấn không chỉ là hình tướng của các Chư Tôn, mà còn là các thủ ấn. Thông thường khế ấn được làm bằng đất, hoặc được vẽ dưới đáy lư đàn pháp.
[3] Tam Mật: Tu ở trong đàn Hộ ma, phải có đủ 3 thứ: Tượng Bản tôn, lư hương, hành giả. Trong đó, tượng Bản tôn tượng trưng cho Ý mật, lư hương tượng trưng Khẩu mật, còn tự thân của hành giả thì tượng trưng cho Thân mật.
[4] Tứ Trí: Bốn Mạn đà la của phép Du già biểu thị cho bốn Trí Bồ Tát bên trong của Tỳ Lô Giá Na Phật là: Kim Cương, Quán Đỉnh, Liên Hoa, Yết Ma.
[5] Thể tướng: Bản thể và hình tướng, có thể hiểu là cấu trúc và hình dạng.
[6] Hữu tình: Trong Phật Giáo, “hữu tình” chỉ các loài có tình cảm, có cảm xúc, có khả năng cảm nhận như con người và động vật.
[7] Loài phi tình: Chỉ các loài không có tình cảm, cảm xúc như cỏ cây, sông núi, đất đá…
[8] Chủng tử nghĩa là hạt giống, mang ý biểu trưng là bản tánh sâu xa, căn cốt của một linh hồn được hình thành và tích tụ nhiều đời nhiều kiếp. Tự là một ký tự, là chữ cái. Trong Mật Tông và Ấn Độ Giáo, “chủng tử tự của Chư Tôn” là một chữ cái (thường dùng chữ Phạn) để đại diện cho chư tôn Phật, Bồ Tát. Thí dụ, trong Kim Cang Giới, chủng tử tự của Đức Đại Nhựt Như Lai (VAIROCANA) là chữ ÚM.
[9] Quỹ trì: Quỹ là nề nếp, mẫu mực, phép tắc, khuôn phép, khuôn khổ. Trì là giữ gìn, giữ vững. Quỹ trì nghĩa là giữ gìn khuôn phép, biết luật và giữ luật không sai chạy.
[10] Lễ sám: Lễ sám hối, ăn năn hối cải về tội lỗi của mình.
[11] Nghi quỹ: Nghi thức, luật lệ, lề lối cách thức phải theo.
[12] Hoàn vũ: Cả vũ trụ; toàn thế giới.
[13] Anh linh: Sự huyền linh, cao quý thiêng liêng.

Bài Viết Liên Quan
Bài Pháp Số 8: Đại Bồ Tát Duy Ma Cật Khai Ngộ Cho Phú Lâu Na
Phú Lâu Na (Pūrṇa Maitrāyaṇīputra, 滿慈子) là một trong mười đại đệ tử của Phật Thích Ca, nổi tiếng là...
42 Thủ Ấn Quan Âm Đại Sĩ: Cầu gì được nấy (Phần 1)
Tất cả những linh phù này đều có công năng linh dị, những người được Điểm đạo và được Tổ...
16. KINH HUỲNH ĐÌNH
Lời dẫn Kinh Huỳnh Đình là một kỳ thư lâu đời của Lão giáo, được ghi nhận trong Tấn thư...
Ấn Độ Phật Học Nguyên Lưu Lược Luận (Phần 1)
Giảng Lần Thứ Nhất Nguyên thủy phật học (530-370 BC) Những thời kỳ của sử phật học chúng ta từ...
CHƯƠNG I: VI – Phép Hộ Ma (PHẦN 6/6)
VI. PHÉP HỘ MA Hộ ma, Trung Hoa dịch là hỏa thiêu, hỏa tế để chỉ cho cảnh lửa cháy...
Bài 2: Học Phật Quyền có lợi ích thực tế gì?
Pháp này giúp thoát muộn phiền Không dùng thi thố kiếm tiền kiếm danh Pháp này đường tắt đi nhanh...
Xăm Tả Quân Lê Văn Duyệt – Xăm Số 59
XĂM TẢ QUÂN SỐ 59 Vô si chi đồ bất khả cận,Mạc dưỡng hà ma thành âm bịnh,Tặc nhơn gia...
Xăm Quan Thánh 45
Xăm Quan Thánh 45: Trung Bình 第四十五号簽 中平好把地心力耕耘彼此山頭總是墳陰地不如心地好修為到底却輸君碧仙注人已初求用意同好將心地問天公若還虧却分毫理訟事教君吉又凶 Âm: Hảo tương tâm địa lực canh vân,Bỉ thử sơn đầu tổng...