CHƯƠNG I: V – Đàn Pháp (PHẦN 5/6)

V. ĐÀN PHÁP

MANDALA có nghĩa là Đàn hay Đạo Tràng, rắc rối hơn nhiều. Trong kinh Đại Nhựt, Kim Cang Thủ Bồ Tát hỏi: “Bạch Thế Tôn: sao gọi là MANDALA?” Đức Phật bảo: “Phát sanh chư Phật gọi là MANDALA, không chi hơn được, pháp vị[1] không chi sánh bằng gọi là MANDALA. Tiếng MANDALA thường không được phiên dịch, nhưng cũng có nơi phiên dịch là Đàn hoặc gọi là Luân Viên Cụ Túc.

Ở Tây Vực, khi tế trời, chỗ đất được dọn sạch sẽ và bằng phẳng nơi đó được gọi là Đàn. Chữ Đàn như vậy chưa diễn tả đủ ý nghĩa của chữ MANDALA của Mật Giáo vì nó còn thiếu nhiều nghi thức khác như Khế Ấn,[2] Tam Mật,[3] Tứ Trí[4] v.v… Còn chữ Luân Viên Cụ Túc có nghĩa là cái bánh xe, nó gồm luôn đầu trục, chốt, căm, vành, niền xe, lại còn thêm chữ “Cụ Túc” để chỉ “không chi hơn,” “pháp vị không chi sánh bằng.”

Như vậy, Luân Viên Cụ Túc diễn tả được đầy đủ ý nghĩa của chữ Phạn MANDALA. Nhưng người ta ít gọi là Luân Viên Cụ Túc vì nó quá dông dài. Vì những lý do vừa kể, chữ MANDALA ít khi được phiên dịch.

MANDALA có nhiều thể tướng[5] khác nhau. Kinh Đại Nhật nói có bốn loại MANDALA: Đàn vuông, đàn tròn, đàn tam giác, đàn hình bán nguyệt. Còn Kinh Kim Cang Đảnh thì nói có năm loại: Đàn tròn, đàn vuông, đàn tam giác, đàn hình hoa sen và đàn hình kim cang.

Theo Kinh Đại Nhựt thì đàn vuông phối hợp với Địa Đại; đàn tròn phối hợp với Thủy Đại, Không Đại; đàn tam giác phối hợp với Hỏa Đại; đàn bán nguyệt phối hợp với Phong Đại. Đàn vuông có nghĩa là bình đẳng vì tướng đất vuông. Đàn tròn có nghĩa là viên mãn vì hư không và nước tròn. Đàn tam giác có nghĩa là hàng phục vì tướng lửa bốc lên hình tam giác. Đàn bán nguyệt có nghĩa là diệt trừ tai nạn vì gió hay xô ngã các vật. MANDALA còn có nhiều danh gọi khác nhau nữa. Đàn tràng có những bức vẽ Chư Tôn, Bồ Tát cầm đao, kiếm, bánh xe… gọi là bình đẳng MANDALA. Đàn tràng có những tôn tượng do tô đắp, khắc chạm hoặc do đúc mà thành gọi là Sự Nghiệp Oai Nghi MANDALA. Đàn tràng có những chủng tử tượng trưng cho Chư Tôn bên tôn vị, gọi là pháp MANDALA.

Sở dĩ gọi là Đại MANDALA vì những tôn tượng đó do năm màu sắc chánh: Vàng, Trắng, Đỏ, Đen, Xanh theo thứ lớp phối hợp với ngũ đại là Đất, Nước, Lửa, Gió và Hư Không.

Gọi là Bình Đẳng MANDALA vì Chư Tôn tiêu biểu cho các loại hữu tình;[6] Đao, Kiếm, Bánh xe tiêu biểu cho loài phi tình.[7] Đây có nghĩa là ngũ đại: Đất, Nước, Gió, Lửa lan khắp Hư Không để thành lập các loại hữu tình và phi tình một cách bình đẳng.

Gọi là Sự Nghiệp Oai Nghi MANDALA vì những tượng do đúc hoặc chạm ấy thầm nói lên sự nghiệp và oai nghi của Chư Phật và Bồ Tát một cách sống động.

Gọi là Pháp MANDALA vì những chủng tử tự[8] của Chư Tôn có tánh cách quy tắc và quỹ trì.[9]

MANDALA hay Đạo Tràng như vậy là nơi thờ cúng, chú nguyện và tu hành của những tu sĩ Mật Giáo. Đạo Tràng thay đổi rất nhiều theo từng loại kinh điển và các nghi điển thần bí. Có lúc người ta đắp Đàn bằng đất trộn với bột hương thơm, có khi người ta vẽ những bức tranh rộng lớn, trên đỉnh thượng có hình Phật Đại Nhựt Như Lai, thứ nữa là vẽ hình của Chư Tôn Bồ Tát, tùy theo cấp bậc để thờ phượng.

Với Chư Tôn, Mật Giáo có thuyết giảng về quyền năng pháp thuật của riêng từng vị một.

Mỗi vị có tay Ấn, tay Quyết riêng biệt và đều được vẽ riêng rẽ trên mỗi bức họa để khi Pháp sư cầu cúng đến vị nào là cứ y theo kiểu vẽ mà ám tay Quyết. Có nơi dùng kính hình tròn, hình vuông… để làm Đàn Pháp.

Cảnh vật nơi cầu nguyện, tham thiền cũng dùng làm biểu hiệu để trợ lực và tiếp ứng cho nhà Đạo để đạt được sở nguyện. Cuộc đất, đền thờ, phương hướng, ngày giờ, y phục, màu sắc, thức ăn, đồ cúng, đồ chưng cũng có ý nghĩa và tác dụng linh thiêng đối với tâm ý nhà Đạo và tùy thuộc vào từng loại nghi điển.

Để dứt trừ những ảnh hưởng tội lỗi, lễ sám[10] được gọi là Tức Tai Pháp (SOKUSAIHO); để làm gia tăng hạnh phúc có Tăng Ích Pháp (ZOYAKOHO); để kêu gọi những quyền năng thiên có Câu Triệu (KUYO); để bẻ gãy những ác cảm của địch thủ và kẻ thù có Hàng Phục (GOFUKU); để cầu Phật và Bồ Tát gia hộ thì có Kính Ái Pháp (KYOAIHO); và để kéo dài tuổi thọ thì có Diên Mệnh Pháp (YEIMMEIHO). Tất cả những nghi quỹ[11] thần bí này được coi như hoàn toàn hiệu nghiệm mang lại những gì mà hành giả ước ao. Tóm lại tất cả những nghi quỹ nói trên là những biểu hiện cho ngôi thứ và sự xoay vần trong hoàn vũ[12] và ảnh hưởng đến cuộc đời ta. Dù vậy sự phức tạp của việc bài biện khi hành lễ có thể được giản dị hóa mà hành giả Mật Giáo vẫn đạt tới các sự anh linh[13] trong vũ trụ: đó là biết thể hiện hạnh đạo của mình cho phù hợp với nguyện lực của Trời Phật


[1] Pháp vị: Cũng gọi Phật pháp vị, hay Pháp trí vị. Pháp vị có hai nghĩa: Nghĩa thứ nhất là hương vị của diệu pháp. Với nghĩa này, ý muốn nói Phật pháp rất sâu xa, cao thâm, phải nghiền ngẫm một cách tinh tế mới thể nhận được và sinh ra an lạc. Nghĩa thứ hai, chữ vị được hiểu là vị trí, địa vị. Pháp vị ở đây muốn nói là địa vị trong các pháp.

[2] Khế Ấn: Theo nghĩa hẹp, chỉ các hình tướng của các Chư Tôn được vẽ ở trên đàn pháp. Nhưng theo nghĩa rộng, khế ấn không chỉ là hình tướng của các Chư Tôn, mà còn là các thủ ấn. Thông thường khế ấn được làm bằng đất, hoặc được vẽ dưới đáy lư đàn pháp.

[3] Tam Mật: Tu ở trong đàn Hộ ma, phải có đủ 3 thứ: Tượng Bản tôn, lư hương, hành giả. Trong đó, tượng Bản tôn tượng trưng cho Ý mật, lư hương tượng trưng Khẩu mật, còn tự thân của hành giả thì tượng trưng cho Thân mật.

[4] Tứ Trí: Bốn Mạn đà la của phép Du già biểu thị cho bốn Trí Bồ Tát bên trong của Tỳ Lô Giá Na Phật là: Kim Cương, Quán Đỉnh, Liên Hoa, Yết Ma.

[5] Thể tướng: Bản thể và hình tướng, có thể hiểu là cấu trúc và hình dạng.

[6] Hữu tình: Trong Phật Giáo, “hữu tình” chỉ các loài có tình cảm, có cảm xúc, có khả năng cảm nhận như con người và động vật.

[7] Loài phi tình: Chỉ các loài không có tình cảm, cảm xúc như cỏ cây, sông núi, đất đá…

[8] Chủng tử nghĩa là hạt giống, mang ý biểu trưng là bản tánh sâu xa, căn cốt của một linh hồn được hình thành và tích tụ nhiều đời nhiều kiếp. Tự là một ký tự, là chữ cái. Trong Mật Tông và Ấn Độ Giáo, “chủng tử tự của Chư Tôn” là một chữ cái (thường dùng chữ Phạn) để đại diện cho chư tôn Phật, Bồ Tát. Thí dụ, trong Kim Cang Giới, chủng tử tự của Đức Đại Nhựt Như Lai (VAIROCANA) là chữ ÚM.

[9] Quỹ trì: Quỹ là nề nếp, mẫu mực, phép tắc, khuôn phép, khuôn khổ. Trì là giữ gìn, giữ vững. Quỹ trì nghĩa là giữ gìn khuôn phép, biết luật và giữ luật không sai chạy.

[10] Lễ sám: Lễ sám hối, ăn năn hối cải về tội lỗi của mình.

[11] Nghi quỹ: Nghi thức, luật lệ, lề lối cách thức phải theo.

[12] Hoàn vũ: Cả vũ trụ; toàn thế giới.

[13] Anh linh: Sự huyền linh, cao quý thiêng liêng.

0 0 votes
Article Rating
Nhận Thông Báo
Thông báo khi
guest

Bài Viết Liên Quan

xăm quan thánh đế quân

Xăm Quan Thánh 20

Xăm Quan Thánh 20: Hạ Hạ 第二十号簽 下下一生心事向誰論十八灘头説與君世事盡從流水去功名富貴等浮雲碧仙注險人求險地説話險心腸有人牢把作兇事得安康 Âm: Nhất sinh tâm sự hướng thùy luân,Thập bát than đầu thuyết...

Bài 134: Đời và Đạo

Giàu chi cho lắm bạc vàng Không bằng đức hạnh thênh thang trong lòng Điền viên đất ruộng mênh mông...

Bài Pháp Số 5: Đại Bồ Tát Duy Ma Cật nhắc nhở Đại Ca Diếp về chân lý tu hành

Đại Ca Diếp (Mahākāśyapa) là một trong mười đại đệ tử của  Phật Thích Ca , nổi tiếng với danh...

mật phước tự phương hoàng chào xuân

Bài 45: Thơ Hồi Đáp Cho Học Trò

Trò rằng: “Thầy ở quá xa. Khó mà gặp gỡ khó mà tu theo Trò đây thấy thật cheo leo...

mật phước tự tộc rồng hội ngộ anh hào

Bài 21: Đôi Lời Cùng Bậc Anh Hào

Đôi lời cùng bậc anh hào. Lão nay bảy chục tuổi trời Hồi âm thơ tín chẳng thời được nhanh...

xăm đức thánh trần

LINH XĂM ĐỨC THÁNH TRẦN HƯNG ĐẠO – QUẺ SỐ 38

QUẺ SỐ 38 – TRUNG BÌNH TRIỆU Đông sơn diệu cầm DỊCH Non Đông dạo đàn TỔNG THI Thanh thế...

xăm đức thánh trần

LINH XĂM ĐỨC THÁNH TRẦN HƯNG ĐẠO – QUẺ SỐ 35

QUẺ SỐ 35 – ĐẠI CÁT TRIỆU Khô trúc sinh duẩn DỊCH Tre khô mọc măng TỔNG THI Đống diệp...

xăm đức thánh trần

LINH XĂM ĐỨC THÁNH TRẦN HƯNG ĐẠO – QUẺ SỐ 45

QUẺ SỐ 45 – TRUNG HẠ TRIỆU Cô nhạn xuất quần DỊCH Chim nhạn lìa đàn TỔNG THI Thùy giao...

0 Comments
Bình chọn nhiều nhất
Mới nhất Cũ nhất
Inline Feedbacks
Xem tất cả bình luận
Chia Sẻ Bài Viết