CHƯƠNG II: II – LƯỢC SỬ MẬT-TÔNG TRUNG-HOA

II. LƯỢC SỬ MẬT TÔNG TRUNG HOA

Kinh điển của phái Mật Giáo Tạp Bộ (Tạp Mật)[1] được dịch sang tiếng Trung Hoa rất sớm vào thế kỷ thứ tư sau Tây lịch. Cát Hữu (SRIMITRA) người xứ PAI (KUCCHA, một bộ lạc da trắng), dịch một vài bản kinh sang Hán Văn. Đó là những loại kinh bùa chú và các loại phù phép khác, thường gồm một vài mật chú và những bài tán Thần hay Thánh ở thượng giới, nhưng thật ra chúng không thể được xem như là biểu dương cho những ước vọng cao.

Phái mà ta mệnh danh là Mật Giáo Thuần Bộ (Thuần Mật),[2] khởi đầu với ba vị pháp sư đến Trung Quốc vào đời Đường (713–765).

A. THIỆN VÔ ÚY (SUBHAKARASIMHA 637–735):

Ông từng là một vị vua của xứ ORISSA,[3] sau khi xuất gia làm tăng và đến đại học NALANDA, nơi vị Pháp Mật (DHARMAGUPTA) tu trì để tu học. Sau đó ông thường du hành tại các nước miền Nam Ấn. Miền Nam lúc bấy giờ chịu ảnh hưởng giáo lý của Long Thọ Đề–bà,[4] xiển dương về Không Tôn[5] rất thịnh hành. Nên ngài Thiện Vô Úy rất am hiểu về lý nhất Pháp Giới[6] của Không Tôn, thâm hiểu Du–già (YOGA), Chơn Ngôn (DHARANA) và Ấn Quyết (MUDRA).

Ông khởi hành đi KASHMIR và Tây Tạng, đến Tràng An vào đời Đường năm Khai Nguyên thứ 4, tức năm 716. Ông được vua Huyền Tôn (685–762) tiếp đón rất nồng hậu và phong làm quốc sư. Năm 717, Ngài dịch kinh “Kim Cang Đảnh Hư Không Tạng Cầu Văn Trì Pháp.”

Cũng vào thời kỳ này, Vô Hành một học giả Trung Hoa, du hành sang Ấn Độ, gặp Nghĩa Tịnh tại NALANDA và thâu thập được nhiều bản kinh Phạn văn. Ông mất trên đường hồi hương. Những tài liệu thâu thập của ông vẫn được đưa đến chùa Hoa Nghiêm ở Tràng An. Khi hay tin đó, Thiện Vô Úy đã lựa chọn vài bản kinh quan trọng và vào năm 725 và 726, ông khởi dịch kinh Đại Nhựt và các kinh khác.

Lúc bấy giờ, mỗi khi Tôn giả Thiện Vô Úy lập đàn tràng và tác pháp,[7] chư Tôn đều gia trì và thị hiện nhiều điều cảm ứng phi thường. Số người có duyên lành được cảm hóa rất đông.

B. KIM CANG TRÍ (VAJRABODHI 663–723):

Ông là người Nam Ấn, học đạo tại NALANDA. Năm mười lăm tuổi, ông sang Tây Ấn học tập “Nhân Minh Luận” trong bốn năm trời với Pháp Xứng (DHARMAKIRTI), nhưng rồi trở về tại NALANDA để thọ Đại giới.[8] Trong sáu năm trời ông chuyên cần học Luật (VINAYA) và Trung Quán Luận (MADHYAMIRA) với SANTABODHI.

Ba năm kế đó ông học Tướng Tôn[9] và nghiên cứu Du–già Luận (YOGACHNA) của Vô Trước, Duy Thức Luận (VIYNAPTIMARA) của Thế Thân và Biện Trung Luận của An Huệ với JINADHADRA tại Ca–tỳ–la–vệ, Bắc Ấn. Rồi bảy năm sau, nghiên cứu Kim Cang Đảnh (VAJRASEKHANA) và các kinh Mật Giáo khác nơi Long Trí A–xà–lê (NAGABODHI) ở Nam Ấn.

Năm Khai Nguyên thứ 8 (năm 720 T.L.), ông đáp thuyền theo đường Nam Hải cùng các đệ tử và Bất Không Tam Tạng, đồng đến Lạc Dương Tràng An (Kinh đô nhà Đường, nay là tỉnh Thiểm Tây). Phụng sắc chỉ của vua Đường, ngài kiến lập[10] hai bộ Mạn–đà–la, mở đàn truyền pháp “Quán Đảnh” cùng dịch thuật nhiều kinh điển của Mật Giáo như: Kim Cang Đảnh, Lược Xuất Kinh…

Kinh điển của ngài thường có nhiều pháp ngữ[11] thiên về phần Pháp Tướng.[12] Mỗi khi ngài lập đàn tràng và tác pháp, đều cảm ứng nhiều điều lành, sự cầu mưa, sai thần khiến quỷ, dẹp trừ chướng nạn đều là những việc thông thường của ngài.

C. BẤT KHÔNG (AMOGHAVAJRA 705–774):

Ông là đệ tử xuất sắc của Kim Cang Trí, người Bắc Ấn, thọ Sa di[13] năm mười lăm tuổi và đến Quảng Đông cùng với thầy, là người mà ông hầu đến tận Lạc Dương và thọ đại giới năm hai mươi tuổi. Trong mười hai năm, ông đã thâm hiểu cả Giáo Tướng và Sự Tướng[14] của Mật Giáo. Sau khi đắc pháp[15] với ngài Kim Cang Trí, ông còn theo học với ngài Thiện Vô Úy về Thai Tạng Giới MANDALA. Sau khi thầy mất, ông còn trở về Ấn Độ tìm thỉnh thêm nhiều kinh điển, tham vấn các bậc cao tài về Mật Giáo tại Thiên Trúc. Sau ông còn du hành sang Tích Lan gặp được ngài Long Trí A–xà–lê, thỉnh thêm kinh Du già mười tám hội pháp… Lần khác ông còn sang Tích Lan cùng với các đệ tử, cả thảy ba mươi bảy người, tìm đến Pháp Sư Phổ Hiền (SAMANTABHADRA) để nghiên cứu về giáo lý của Kim Cang Đảnh Du già (VAYRA–SEKHARA–YOGA) và Đại Nhựt Thai Tạng (MAHAVAIROCANA–GHARBHAKUSA). Ông trở về Tràng An vào dịp này với một số kinh điển phong phú.

Bất Không là quốc sư của ba triều vua: Huyền Tôn, Túc Tôn và Đại Tôn.

Ông dịch cả thảy 110 bộ kinh, gồm 143 quyển, trong đó có bộ quan trọng nhất là Kim Cang Đảnh. Đó là bộ kinh mà giáo sư TUCCI người Ý và giáo sư ONO người Nhật tình cờ phát kiến[16] đồng thời. Giáo sư TUCCI tìm thấy ở Tây Tạng bản Phạn văn và giáo sư ONO, khám phá ra tại Nhật Bản chú giải kinh đó bằng tranh ảnh, được Trí Chứng Đại Sư người Nhật mang từ Trung Hoa về từ năm 853. Dịp may khám phá này của hai giáo sư danh tiếng đã minh định[17] cho sự đồng nhất của Mật Tông tại các nước Trung Hoa, Tây Tạng và Nhật Bản.

Ngài Bất Không truyền pháp cho năm vị đệ tử: Hàm Quang, Huệ Lảng, Đàm Trinh, Giác Siêu, Huệ Quả. Sau đó Huệ Lảng truyền cho Thiên Trúc, Trúc Truyền, Đức Mỹ, Huệ Cẩn, cư sĩ Triệu Chánh. Huệ Quả truyền cho Nghĩa Quán, Chí Thanh, Nghĩa Tháo và Không Hải – một đại sư người Nhật, sau về nước truyền giáo rất mạnh.

D. NHẤT HẠNH (ICHIGYO 683–727):

Ông là đệ tử của Thiện Vô Úy, tinh thông về Tam Luận,[18] Thiền, Thiên Thai[19] và Lịch Số,[20] từng giúp Thiện Vô Úy dịch kinh Đại Nhựt. Nhờ nghe thầy giảng, Nhất Hạnh trước tác một bản sớ về kinh này, gọi là “Đại Nhựt Kinh Sớ,” bản sớ giải kinh Đại Nhựt, gồm hai mươi quyển, được xem là Mật Giáo yếu điển[21] sau này.

Vì ông là học giả uyên thâm về Thiên Thai Giáo, nên bản sớ giải của ông được xem như chứa đựng rất nhiều giáo nghĩa Thiên Thai. Bản thảo lưu truyền chưa được tu chỉnh, sau cùng được Trí Nghiễm, đệ tử của Thiện Vô Úy và Ổn Cổ, đệ tử của Kim Cang Trí, hiệu đính và đặt tựa lại là “Đại Nhựt Kinh Nghĩa Thích.”

Đông Mật[22] vẫn y theo bản kinh chưa được tu chỉnh, trong lúc Thai Mật19 lại dùng bản được hiệu đính này.

Nhất Hạnh theo học cả với hai vị pháp sư Ấn Độ, Thiện Vô Úy và Kim Cang Trí và được cả hai truyền cho các nghi quỹ về Kim Cang Giới (VAJRADHATU) và Thai Tạng Giới (GARBHAKOSA), nhưng có người cho rằng ông coi Kim Cang Giới quan trọng hơn.

Nhất Hạnh là một nhà bác học, trí tuệ cao siêu, ông đã từng được vua Đường Huyền Tôn phong làm quốc sư lúc bấy giờ.

Đồ biểu sau đây sẽ chỉ rõ hệ thống truyền thừa tại Trung Hoa:

ĐỨC PHẬT ĐẠI NHỰT
KIM CANG TÁT ĐỎA
LONG THỌ BỒ TÁT
LONG TRÍ BỒ TÁT
THAI TẠNG GIỚI
1. Thiện Vô Úy (637–735)  
   2. Nhất Hạnh2. Bất Không
   3. Nghĩa Lâm3. Huyền Chiếu
   4. Thuận Hiểu4. Huệ Quả
   5. Truyền Giáo Đại Sư (Nhật)5. Hoằng Pháp Đại Sư (Nhật)
KIM CANG GIỚI
           1. Kim Cang Trí (663–723)  
   2. Bất Không2. Nhất Hạnh
   3. Nghĩa Tháo     3. Huệ Quả
   4. Nghĩa Chân4. Truyền Giáo Đại Sư (Nhật)
   5. Từ Giác Đại Sư (Nhật)5. Huệ Tắc
 6. Nguyên Chánh


[1] Mật Giáo Tạp Bộ (Tạp Mật): Đây là thời kỳ đầu tiên của sự hình thành và phát triển Mật Giáo mà lịch sử nhân loại còn ghi lại được. Chữ “tạp” có nghĩa là nhiều thứ, nhiều loại lẫn lộn vào nhau, và thường là có chất lượng không tốt. Tạp Mật là thời kỳ mà Mật Giáo chưa có giáo thuyết thuyết giảng, tất cả sự truyền thụ đều là khẩu truyền, không có văn tự nào ghi chép lại. Việc thực hành Mật Giáo thời kỳ đó vừa có sự pha trộn của các tín ngưỡng dân gian, vừa sử dụng các bí thuật cấm chú của kinh Vệ Đà, vừa thực hiện các nghi thức cúng tế, phép Hộ Ma, và cách thức thiền định Du-già của Bà La Môn Giáo. Chính vì sự pha trộn này, mà người đời sau gọi thời kỳ khởi đầu của Mật Giáo là Tạp Mật.

[2] Mật Giáo Thuần Bộ (Thuần Mật): Chữ “thuần” có nghĩa là chỉ toàn một thứ, một loại, không xen lẫn thứ khác, loại khác vào. Thuần Mật có nghĩa là chỉ chuyên nhứt về Mật Giáo, không pha tạp các loại tín ngưỡng tôn giáo khác.

Đến thế kỉ thứ 7 sau Tây lịch, khi bộ Kinh Đại Nhựt (tức Đại Tỳ–lô–giá–na Thành Phật Thần Biến Gia Trì Kinh) được xuất hiện ở Nam Ấn Độ, Mật Giáo mới chánh thức được thành lập. Đây là thời kỳ thịnh vượng của Mật Giáo, với sự xuất hiện của nhiều bậc cao tài về Mật, thi triển được nhiều phép thần thông để cảm hoá dân chúng. Kinh điển của Mật Giáo bắt đầu được ghi xuống một cách có hệ thống hơn vừa có giáo thuyết thuyết giảng, vừa có phần thực hành các bản mật chú, nghi thức tu trì và cúng tế. Sự truyền thừa của Mật Giáo đi khắp các xứ Á Châu được ghi lại rõ ràng, tiện lợi cho việc tra cứu về sau.

[3] Xứ ORISSA: Hiện nay là một tiểu bang ở miền đông của nước Ấn Độ.

[4] Đề–bà: Tiếng Phạn là Deva, có nghĩa là thần tiên, thánh nhân.

[5] Không Tôn: Trường phái chủ trương tất cả đều không. Tương tự như lập trường Không Lý, Tánh Không).

[6] Nhứt Pháp Giới: Hết thảy mọi sự vật, mọi hiện tượng hoặc ẩn hoặc hiển, hoặc có hoặc không, chơn thật hay hư vọng, hoặc đã biết hoặc chưa biết, đều gọi là pháp giới (pháp giới: thế giới của pháp). Nhứt Pháp Giới (còn gọi “nhất tâm pháp giới” hay “độc nhất pháp giới”) là chỉ cho chân lý độc nhất vô nhị, tuyệt đối bình đẳng. Nói cho gọn, Nhứt Pháp Giới là chân lý duy nhứt.

[7] Tác pháp: Cử hành nghi lễ tôn giáo, thi triển pháp thuật.

[8] Thọ đại giới: Thọ nhận giới luật để trở thành Tỳ–kheo, hay Tỳ–kheo ni.

[9] Tướng Tôn: Còn gọi là Pháp Tướng Tông. Trường phái chuyên nghiên cứu về Tướng trạng, hình tướng của các Pháp.

[10] Kiến lập: Xác quyết, thiết lập.

[11] Pháp ngữ: Những lời giảng về pháp tu, ngôn ngữ thuyết pháp

[12] Pháp Tướng: Tướng trạng, hình tướng của các pháp. Mỗi sự vật có hình tướng riêng biệt hiện ra bên ngoài và thể tánh không hình tướng.

[13] Sa di: Tiểu tăng, tiểu sa–môn, chú tiểu. Sa-di là người nam xuất gia trong tăng đoàn của Phật Giáo, tuổi từ bảy tới mười chín tuổi.

[14] Giáo Tướng và Sự Tướng: (Xem Chương V: Phương pháp tu hành)

[15] Đắc pháp: Hiểu biết thấu đáo và thực hành giáo pháp thành công

[16] Phát kiến: Tìm ra, phát hiện ra.

[17] Minh định: Làm cho sáng tỏ, xác định rõ ràng.

[18] Tam Luận: Tam Luận tông, tên gọi một tông phái của Phật Giáo Trung Quốc.

[19] Thiên Thai: Thiên Thai tông, tên gọi một tông phái của Phật Giáo Trung Quốc.

[20] Lịch Số: Bộ môn chiêm tinh, lấy số tử vi, coi ngày lành tháng tốt.

[21] Yếu điển: Kinh điển quan trọng.

[22] Đông Mật, Thai Mật: (Xem phần MẬT TÔNG TẠI NHẬT)

0 0 votes
Article Rating
Nhận Thông Báo
Thông báo khi
guest

Bài Viết Liên Quan

linh phù trị bệnh mật phước tự

Bộ Linh Phù Trị Các Loại Bệnh

Tất cả những linh phù này đều có công năng linh dị, những người được Điểm đạo và được Tổ...

TẬP SAN MẬT PHƯỚC SỐ 20

TẬP SAN MẬT PHƯỚC SỐ 20 CÂU CHUYỆN TÂM LINH: CHƯA TỚI SỐ THÌ KHÔNG CHẾT ĐƯỢC Ban Biên tập...

sự im lặng của người tu

Bài 143: Sự im lặng của người biết tu

Tu là để sống biết điều Không ham tranh chấp, chẳng liều hơn thua Tu rồi chẳng phải ganh đua...

quan thánh đế quân hộ mạng

Xăm Quan Thánh 76

Xăm Quan Thánh 76: Trung Bình 第七十六号簽 中平三千律法八千文此事如何説與君善悪两途君自作一生禍福此中分碧仙注訟庭有險莫來尋只恐憂疑亂了心凡事要知前定數但將善悪自浮沉 Âm: Tam thiên pháp luật bát thiên văn,Thử sự như hà thuyết...

mật phước tự việt nam hùng cường

Bài 35: Vì Sao Thầy Ở Mỹ ?

Có người hỏi thật thẳng ngay. “Thầy sao không ở miền Tây vậy Thầy Lại đi ở tận trời tây...

Nỗi khổ ngày tết mật phước tự

Bài 91: Nỗi Khổ Ngày Tết

Ai bày cảnh Tết làm chi Khiến cho nhân thế một thì đảo điên Tết thường lắm chuyện luỵ phiền...

xăm quan thánh đế quân

Xăm Quan Thánh 31

Xăm Quan Thánh 31: Trung Cát 第三十一号簽 中吉秋冬作事只尋常春到門庭漸吉昌千里信音符遠望萱堂快樂未渠央碧仙注凡事營求久必成春來次第自通亨門庭吉利皆平善財物应相漸漸成 Âm: Thu đông tác sự chỉ tầm thường,Xuân đáo môn đình tiệm...

TẬP SAN MẬT PHƯỚC SỐ 18

TẬP SAN MẬT PHƯỚC SỐ 18 CÂU CHUYỆN TÂM LINH: Thế giới tâm linh của Hồ Cáp Ngô Duy Lâm...

1 Comment
Bình chọn nhiều nhất
Mới nhất Cũ nhất
Inline Feedbacks
Xem tất cả bình luận
Huy Ton
Huy Ton
3 months ago

Nam mo a di da phat

Chia Sẻ Bài Viết