Thượng Đế có lệnh truyền cho ông Nguyên Thỉ xét ông hiền, ông dữ và thực hiện bảng Phong Thần. Với cớ ấy nên ông Nguyên Thỉ truyền đóng cửa động và không còn giảng kinh cho các môn đệ. Hơn nữa ông cũng đã dự trù cho học trò mình là Khương Tử Nha xuống núi làm tướng để thực hiện Thiên cơ như đã ấn định.
Ngày kia ông Nguyên Thỉ sai Bạch Hạc đồng tử đi gọi Khương Tử Nha đến để dạy việc. Bạch Hạc đồng tử tuân lệnh đến dời, Tử Nha ứng hầu lập tức. Đợi Tử Nha làm lễ xong xuôi Nguyên Thỉ truyền:
– Ngươi lên núi được mấy năm?
Tử Nha thưa:
– Đệ tử tu hồi 23 tuổi, đến nay đã được bảy mươi hai rồi.
Nguyên Thỉ nói:
– Nay Thành Thang hết vận, Tây Châu ra đời. Ngươi phải thay ta xuống trần ra công giúp nước, lập bảng Phong Thần. Sống làm tướng, chết làm thần. Như vậy công tu luyện của ngươi mấy mươi năm trời không uổng.
Tử Nha năn nỉ:
– Đệ tử cố bỏ nhà lên núi, dốc lòng lánh tục tìm tiên, bốn chục năm đủ nguyện bỏ đời theo đạo. Vẫn biết tu hành là khó, muốn thành chánh quả không phải một sớm một chiều, nhưng đệ tử đã theo thầy học tập lâu nay, xin thầy làm ơn cứu rỗi, nỡ nào đuổi đệ tử trở lại phàm trần!
Nam Cực Tiên Ông khuyên:
– Tử Nha! Số ngươi đã định, xuống giúp thế gian, thực hiện xong nhiệm vụ, rồi sẽ trở về non theo đạo thì tốt hơn.
Tử Nha không còn biết nói sao hơn, đành sửa soạn ra đi, và hỏi Nguyên Thỉ:
– Nay đệ tử vâng lời về chốn phàm trần, chẳng hay việc sắp đến ra thế nào, xin thầy chỉ giáo.
Nguyên Thỉ nói:
– Ta có tám câu kệ, chỉ rõ trọn đời ngươi. Ngươi hãy nhớ lấy. Nói rồi ngâm:
Mười năm chịu túng áo còn bâu,
Gượng gạo mua vui chớ chác sầu.
Ngồi đá Bàn Khê câu đợi vận,
Chờ xe vương giả rước về lầu.
Tám mươi lẻ nửa mang đai ngọc,
Chín chục dư ba buộc ấn hầu.
Mậu ngũ chư hầu trăm trấn phục,
Phong thần chín tám bốn xuân thu.
Nguyên Thỉ ngâm kệ rồi nói:
– Tuy bây giờ ngươi xuống đời, nhưng ngày sau cũng về núi.
Tử Nha lạy thầy giã bạn, ra khỏi cung Ngọc Hư. Nam Cực Tiên Ông theo đưa ít dặm, đến núi Kỳ Lân, dặn Tử Nha:
– Mấy lời thầy đã dạy, hiền hữu chớ bồn chồn. Ngày nay xa cách, nhưng có lúc gặp nhau. Xin tạm biệt.
Tử Nha lạy tạ, cáo từ Nam Cực Tiên Ông và xuống núi.
Lời bàn:
Pháp tu của bất cứ tôn giáo nào đại loại cũng chia ra làm hai giai đoạn: tiêu cực và tích cực.
Trước tiên người tu phải lánh trần tìm nơi tĩnh mịch, hoang vắng hầu tham thiền suy tưởng đến những nguyên lý hữu hình cũng như siêu hình của vũ trụ và cuộc nhân sinh để tìm ra lẽ đạo của trời đất. Họ thường hay hãm mình, ép xác, tu sửa bản thân và thực hiện nhiều phương cách tu tập cầu kỳ, khó khăn. Có khi như có vẻ đày đọa xác thân, hoặc một cách nào đó mà người thế trông như có vẻ điên khùng để mong tìm cứu cánh của sự giác ngộ. Đó là giai đoạn xuất thế mà người tu phải trải qua trong giai đoạn học đạo và tu đạo và thường có tâm trạng tiêu cực, phủ nhận các thực thể của đời sống hiện tại; đó là lúc mà có thiền sư đã nói: “Sông không còn phải là sông, núi không còn là núi.”
Trong cái thái độ thái quá phủ nhận và vượt khỏi hiện thực để mong cầu trạng thái niết bàn, Thiên đàng, giải thoát… Tu sĩ đã lần hồi thấy được, hiểu được Đạo không phải ở trong sự phủ nhận thế giới này và kiếp nhân sinh, không phải ở trong sự tu đày đọa thể xác để tìm ra giá trị tinh thần, không phải ở trong cái thiện để phủ nhận cái bất thiện, không phải là hoa sen thơm ở ngoài cái đầm bùn. Trong sự phân biệt nhị nguyên của lý luận nông cạn lúc ban đầu, họ đã thấy được ánh sáng rõ ràng của đời sống sẽ tiếp diễn ở bên kia cõi tử, họ đã liễu ngộ được sự an lạc trong những cơn xuất thần, trong những giờ đại định, họ đã từng ghé chân đến thiên đàng, niết bàn trong những cơn định sâu; họ đã chính mắt thấy được lẽ huyền diệu của Đạo bằng trực giác; họ đã trực diện với đời sống tâm linh một cách thiết thực và rõ ràng… Cái mà con người gọi họ là kẻ đắc đạo và đạt đạo và mệnh danh họ bằng nhiều danh từ khác nhau: Thánh, A la hán, Phật v.v…
Trong sự liễu đạt các thực chứng đó, họ đã an tâm và không còn lo sợ cái chết là chấm dứt cuộc hành trình của họ. Họ không còn quá nhiều lo lắng để đắm mình trong sự ngốc ngếch lo âu của đời sống quay cuồng, động loạn của kiếp nhân sinh ngắn ngủi. Họ an tịnh bước vào giữa dòng đời, sinh sống, truyền đạt những gì họ đã giác ngộ, chấp nhận những biến thiên của kiếp sống, sống như mọi người mà không bị vọng động, lo âu, sợ hãi, ngu muội như con người. Họ cũng buồn, vui, ăn uống, ngủ nghỉ, sinh hoạt nhưng khoáng đạt và giải thoát vì họ đã qua khỏi cảnh sống chết này từ lúc họ thực chứng được cái mà các tôn giáo hằng gọi là Niết Bàn.
Họ đã trở về với thế gian sau thời gian lánh tục. Họ đã lại nhập thế để làm ích lợi cho thế gian. Đó chính là cái ý nghĩa mà ta gọi là “xuống núi” hay cái trạng thái mà thiền sư đã gọi “núi vẫn là núi, và sông vẫn là sông”, đạt đạo nhưng không chối bỏ đời mà làm ích lợi cho đời, không làm theo tư dục mà làm theo Thiên ý. Đó cũng còn gọi là giai đoạn tích cực hay Đại Thừa của người hành đạo thể hiện các chơn lý của nhà Phật: “Phiền não là gốc của Bồ đề”, “Sanh tử tức là Niết Bàn” và “Phật pháp bất ly thế gian pháp” một cách trọn vẹn nhất.