CHƯƠNG I: KHÁI NIỆM VỀ MẬT GIÁO
Vì sao phái này có danh xưng là Bí Mật Phật Giáo, lược gọi là Mật Giáo? Có những lý do sau đây:
I. GIÁO CHỦ BÍ MẬT
Vị giáo chủ của tông phái này không phải là Đức Phật Thích Ca như một số người lầm tưởng mà chính là Pháp Thân của Đức Thích Tôn, tự là Đức Đại Nhựt Như Lai hay còn gọi theo Phạn âm là Đại Tỳ–lô–giá–na Phật. Nhưng Đại Nhựt Như Lai hay Đại Tỳ–lô–giá–na Phật (MAHAVAIROCANA) là vị nào? Các tông phái Đại Thừa cũng như Mật Giáo đã giải thích Phật có đến ba thân: Pháp thân, Báo thân, Ứng thân.
1. Pháp Thân Phật: Theo tiếng Phạn là VAIROCANA BUDDHA thường được dịch là Đại Nhựt Như Lai, biểu tượng nhân cách cho Pháp Thân của chân lý vốn sáng rực rỡ như mặt trời hư không bao la. Ngài ngự ở thế giới HOA TẠNG TRANG NGHIÊM
(KUSUMA TALA GARBHA VYUHA ALAMKARA LOKADHATU) thế giới được kết dệt bằng một ngàn cảnh hoa sen. Trong truyền thống Đại Thừa, những kinh điển siêu việt tri kiến[1] như HOA NGHIÊM (AVATAMKARA), PHẠM VÕNG (BRAHMAJALA) đều do ngài giảng thuyết, mà chỉ có bậc Đại Bồ Tát mới nghe và thấy Đức Phật hiện thân của chân lý này. Quốc độ của Ngài được gọi là THƯỜNG TỊCH QUANG TỊNH ĐỘ.[2]
Mặt khác, Pháp Thân (DHARMAKAYA) còn là tự thể[3] của hết thảy chư Phật và chúng sanh. Do Pháp Thân mà các pháp có thể xuất hiện. Không Pháp Thân sẽ không có thế giới, theo nghĩa này Pháp Thân là bản thân yếu tính của hết thảy mọi loài, đã có từ trước.
Pháp Thân là Pháp Tánh[4] (DHARMATA) hay Phật Tánh (BUDDHATA). Cũng vì đó có thiền sư đã nói “Pháp Thân chân thật của Phật như hư không, ứng vật hiện hình như trăng lồng bóng nước” hoặc “Trúc biếc xanh xanh đều là Pháp Thân, hoa vàng rậm rạp chính là Bát Nhã.”[5] Như vậy Pháp Thân của Mật Giáo phù hợp với nền tảng đạo lý của các tôn giáo khác. Nền tảng đạo lý của tất cả các tôn giáo chính là chân lý của chân lý (SATYASYA SATYAN; THE TRUTH OF TRUTH).
Tất cả triết lý tôn giáo đều quy kết về một kiến giải[6] duy nhất đó là minh kiến về nguyên lý nền tảng của tất cả vũ trụ. Nguyên lý đó là năng lực huyền diệu của tất cả vũ trụ, là nguyên lý của trời đất, đồng thời cũng là năng lực huyền diệu nằm kín trong tâm thức con người. Vì không thấy được nguyên lý đó nên con người mới trở thành đau đớn, khổ lụy và trôi nổi. Muốn giải phóng thân phận mình, muốn được giải thoát, con người phải đồng hóa, thể nhập[7] với nguyên lý đó.
Khám phá ra nguyên lý trong con người và vũ trụ, thể nhập[8] làm một với nguyên lý ấy, đó là nền tảng của tất cả triết học của tôn giáo, đó là căn bản của tất cả khoa học. Làm thế nào để nhận thấy và thể nhập là một với nguyên lý đó? Câu hỏi này đã được mỗi một tông phái triết học trả lời bằng những phương tiện khác nhau, nhưng tất cả các phương tiện khác nhau ấy đều dẫn về nền tảng duy nhất là một thái độ sống phù hợp với Đạo, với chân lý. Nguyên lý đó là thực tại tối cao, tối hậu mà triết học VEDANTA gọi là BRAHMAN, Thiên Chúa Giáo gọi là Thiên Chúa, Hồi Giáo gọi là ALLAH, Do Thái gọi là JEHOVAH, người Việt gọi là Ông Trời, Mật Tông gọi là Pháp Thân hay Đức Đại Nhựt Như Lai, một số khác gọi là Đại Linh Quang[9]v.v…
2. Báo Thân Phật (SAMBHOGAKAYA) cũng gọi là Thọ Dụng Thân, là bản thân tâm linh của các Bồ Tát, được Bồ Tát thọ dụng[10] như là kết quả do tu tập các Ba–la–mật.[11] Các ngài tự mình thành tựu điều này tùy theo định luật nhân quả trên phương diện đạo đức và trong đây các ngài giải trừ trọn vẹn tất cả những sai lầm và ô nhiễm, thành tựu công đức tu hành trải qua ba đại kiếp[12] mà được.
3. Hóa Thân Phật[13] hay Ứng Hóa Thân hoặc Biến Hóa Thân (NIRMANAKAYA) phát sinh từ Đại bi Tâm (MAHAKARANA) của chư Phật và Bồ Tát.
Bằng lý thể[14] của Đại Bi[15]mà các Ngài hướng tới chúng sanh, các Ngài không bao giờ thọ dụng những kết quả các hành vi đạo đức của mình. Chí nguyện thiết tha của các Ngài là chia sẻ những kết quả này cho tất cả chúng sanh. Nếu có thể thay thế kẻ phàm phu chịu khổ não, Bồ Tát thực hiện ngay. Nếu kẻ phàm phu có thể được giác ngộ do Bồ Tát hồi hướng[16] công đức của mình cho, Ngài sẽ thi hành tức khắc. Bồ Tát hồi hướng và chịu gian khó thay cho chúng sanh nhờ biến hóa thân của Ngài. Do đó trong tánh cách không gian, Bồ Tát chia thân mình thành trăm ngàn ức vô số thân. Ngài có thể hóa thân làm những loài bò bay máy cựa,[17] làm Thánh, làm Ma Vương, nếu Ngài thấy đó là cơ duyên thích hợp để cứu vớt thế gian ra khỏi kiềm tỏa[18] của vô minh,[19] phiền não và đủ mọi thứ ô nhiễm, bất tịnh.
Để có thể hiểu ý niệm hóa thân, xin trích ra đây vài mẩu chuyện sau:
– Trong văn học Nhật Bản thường truyền tụng Bồ Tát Phổ Hiền hóa thân làm kỹ nữ. Sử chép người kỹ nữ ở đây là nàng Eguchi cùng thời với thiền sư Tây Hành (SAIGYO), một thi tăng dưới thời KAMAKURA.[20] Khi Tây Hành trên đường du thực đến vùng ở gần OSAKA thì bấy giờ trời tối và không có nhà tá túc qua đêm, sư đến kêu cổng Eguchi. Nàng từ chối không tiếp vì nhà chỉ có riêng mình. Tây Hành làm một bài thơ đưa vào:
“Khi tôi chưa bỏ cõi đời
Tim nàng cùng nên rắn
Giờ sao hất hủi tôi
Chỉ một đêm trần gian huyễn mộng.”
Cử chỉ của nàng thật ra là nghĩa cử tốt đối với nhà sư, không phải muốn làm khó dễ mà vì muốn bảo vệ danh tiếng của ông. Nữ thần biến mất. Nhà sư vân du[21] này nghe tiếng vọng tuyệt vời của người phụ nữ lướt trên những ngọn sóng YODO (ĐINH XUYÊN). Lúc sư vừa nghe tiếng nhạc như bay bổng lên trời, sư nhìn thấy Đức Phổ Hiền ngự trên voi trắng có những tiên nữ tùy tùng, biến mất vào giữa đám mây lành rực rỡ.
– Ở Trung Hoa cũng thường truyền tụng chuyện Quan Âm Hóa Ngư Lam.[22] Đời Đường, trong niên hiệu Nguyên Hòa (806–820), vì muốn hóa độ dân chúng vùng Thiểm Hữu, Đức Quan Âm làm một thiếu nữ đẹp.
Có nhiều thanh niên rắp ranh[23] bắn sẻ.[24] Nàng ra điều kiện: “Nếu các anh, ai học thuộc kinh Quan Âm nội trong một buổi chiều, tôi sẽ làm vợ người đó.” Sáng hôm sau, có hai chục ứng viên đã học thuộc lòng kinh đó. Nhưng nàng lại nói không thể làm vợ nhiều người cùng một lúc như thế. Vậy ai có thể học thuộc kinh Kim Cang nội trong một đêm? Mười người trúng tuyển. Phải thi nữa. Lần này họ được ra điều kiện học thuộc bộ kinh Pháp Hoa gồm bảy quyển trong ba ngày. Chàng họ Mã là người duy nhất trúng tuyển. Nàng hứa làm vợ chàng. Khi hôn lễ đã được sửa soạn chu đáo, thiếu nữ bỗng đổ bịnh, dung nhan tàn tạ hư hoại, rồi chết ngay trước mặt các tân khách. Sau đó, một nhà sư dự lễ táng, thấy xương của nàng trở nên vàng ròng, sư mới nói với họ: Nàng không phải là người phàm. Do phương tiện (UPAYA) của Bồ Tát mà nàng hiện thân cho họ thấy. Đó là cho họ nghĩ đến chánh pháp để đừng làm các tội ác. Nói xong, sư bay bổng lên không.
– Một lần khác Đức Quán Tự Tại xuất hiện vào lúc Huyền Trang đang trên đường đi Ấn Độ. Huyền Trang được dạy đọc Bát Nhã Tâm Kinh[25] mỗi khi gặp những gian nan và tận khổ vì bị bao phủ trong tuyết lạnh, bị thổi cuốn bởi những cơn gió lốc ào ạt và bị thú dữ thường xuyên đe dọa.
Bồ Tát hiện thân làm một nhà sư bịnh hoạn, đọc bài kinh và chú Bát Nhã để trấn an nhà sư chiêm bái vĩ đại này của Trung Hoa. Sư thành tín tuân theo lời khuyên và cuối cùng nhờ đó đã có thể bình an đi tới vùng đất tâm nguyện.
Về thuyết tam thân của Phật Giáo, các tông của Hiển Giáo luận rằng Đại Nhựt Như Lai là Pháp Thân nên không có hình tướng và không thuyết pháp, chỉ có Báo Thân và Ứng Thân như Đức Phật Thích Ca mới có hình tướng và nói Pháp. Trái lại, Mật Giáo cho rằng: Chính Pháp Thân Phật thường trụ[26] thuyết pháp nhưng vì thính chúng không có tai để nghe, không có mắt để thấy và thiếu trí để hiểu.
Tam Mật[27] của Đức Phật[28] sẽ vĩnh viễn là bí mật, nếu không có phương tiện để dẫn độ. Một phương tiện dẫn độ như vậy phải bắt đầu từ “Gia Trì Lực” (ADHISTHANA) chứ không do nỗ lực hữu hạn của hành giả.
[1] Siêu việt tri kiến: Tri kiến là thấy biết, trải nghiệm thực tế, trực tiếp qua giác quan và ý thức. Siêu việt tri kiến là kinh nghiệm vượt lên trên hẳn những hiểu biết thông thường.
[2] Thường Tịch Quang Tịnh Độ: Cõi Tịnh Độ nơi Đức Đại Nhựt Như Lai an trụ, không sanh diệt (nên gọi là Thường), không phiền não nhiễu loạn (nên gọi là Tịch), và có ánh sáng trí tuệ (nên gọi là Quang).
[3] Tự thể: Bản chất cốt lõi có sẵn.
[4] Pháp Tánh: Là thể tánh chân thật, tự nhiên bất biến của hết thảy chúng sanh, sự vật và hiện tượng trong vũ trụ. Nói cách khác, Pháp Tánh chính là chơn lý của vũ trụ.
[5] Bát Nhã: Nghĩa là cái biết siêu việt. Bát Nhã là khái niệm chỉ một thứ trí huệ không phải do suy luận hay kiến thức đem lại, mà là trí huệ của sự hiểu biết một cách toàn triệt.
[6] Kiến giải: Nhận thức, ý kiến hiểu biết đối với một vấn đề gì.
[7] Thể nhập: Chỉ trạng thái hòa nhập, hòa hợp
[8] Thể nhập: Nhập vào trạng thái bất di bất dịch.
[9] Đại Linh Quang: Đây là cách mà đạo Cao Đài gọi Đức Thượng Đế. Cao Đài cho rằng linh hồn là do Thượng Đế tạo ra. Đấng Thượng Đế là Đại Linh Quang (Đại Hồn), còn con người là Tiểu Linh Quang (Tiểu Hồn).
[10] Thọ dụng: Thụ hưởng, nhận để dùng.
[11] Ba–la–mật: Còn gọi là Ba–la–mật–đa, được dịch các nghĩa là: Đáo bỉ ngạn (đến bờ bên kia), Độ vô cực (đến nơi không giới hạn), Sự cứu cánh. Thuật ngữ này chỉ các công hạnh của một vị Bồ Tát trong quá trình tu tập theo Phật Giáo Đại Thừa để đưa chúng sanh đến bờ giải thoát.
[12] Đại kiếp: Là một đơn vị tính thời gian theo quan điểm của Phật Giáo. Một đại kiếp tương đương với 1,4 tỷ năm. Ba đại kiếp sẽ tương đương 4,2 tỷ năm.
[13] Hoá Thân Phật: Đây là thân tướng do các Bồ Tát tạo ra, bằng xương bằng thịt trên thế gian để giáo hóa chúng sanh.
[14] Lý thể: Nền tảng, bản thể của muôn sự muôn vật.
[15] Đại Bi: Lòng trắc ẩn rộng lớn, yêu thương bình đẳng, xem mọi chúng sanh đều như nhau.
[16] Hồi hướng: Dùng thiện căn công đức tu hành của mình để hướng về mục đích hoặc tự làm lợi ích cho chính mình, hoặc làm lợi ích cho người khác.
[17] Loài bò, bay, máy, cựa: được dùng để chỉ tất cả các loài sinh vật trong thế gian này, không sót loài nào. Bò: những loài bò trườn như rắn, giun,…. Bay: những loài có cánh, biết bay (muỗi, ruồi, ong, bướm…). Máy: nghĩa là ngọ nguậy, động đậy – chỉ những loài nhỏ li ti như vi trùng, ấu trùng,…Cựa: những loài có chân cựa quậy, cào bới như dế, cào cào, châu chấu.
[18] Kiềm toả: Xiềng xích ràng buộc.
[19] Vô minh: Sự thấy lầm, sự mê lầm, không sáng suốt, không thấy rõ thực tướng của pháp, của vạn hữu.
[20] KAMAKURA: Là một thời kỳ kéo dài từ năm 1192 tới năm 1333 trong lịch sử Nhật Bản.
[21] Vân du: Đi nay đây mai đó, không có cố định. Cho nên người ta mới so sánh như đám mây bay vô định.
[22] Quan Âm Hóa Ngư Lam: Tích Quan Âm Bồ Tát hóa thành thiếu nữ xinh đẹp tay cầm giỏ đựng cá chép.
[23] Rắp ranh: Ý đồ, liệu tính sẵn chờ có dịp là thực hành.
[24] Bắn sẻ: Chỉ việc cầu hôn. Tích xưa ghi: Đậu Nghi thời nhà Đường có cô con gái muốn kén rể, bèn hoạ hình chim sẻ trên tấm bình phong, ai bắn được trúng mắt chim sẽ gả con gái cho. Lý Uyên (sau trở thành hoàng đế Đường Cao Tổ) bắn trúng nên được cưới con gái Đậu Nghi.
[25] Bát Nhã Tâm Kinh: Còn được biết đến với tên gọi là Bát Nhã Ba–la–mật–đa Tâm Kinh, là bài kinh ngắn nhất trong hệ thống kinh Bát Nhã Ba–la–mật gồm 600 cuốn.
[26] Thường trụ: Vĩnh cửu, bất diệt, không ngừng.
[27] Tam Mật: Gồm Thân mật, Ngữ mật và Ý mật. Đức Đại Nhựt Như Lai bản thể khắp thời gian không gian là Thân mật. Tiếng nói khắp thời gian không gian là Ngữ mật. Thức đại khắp thời gian không gian là Ý mật.
[28] Đức Phật: Đức Phật Đại Nhựt Như Lai.
Bài Viết Liên Quan
CHƯƠNG II: II – LƯỢC SỬ MẬT-TÔNG TRUNG-HOA
II. LƯỢC SỬ MẬT TÔNG TRUNG HOA Kinh điển của phái Mật Giáo Tạp Bộ (Tạp Mật)[1] được dịch sang...
Xăm Quan Thánh 66
Xăm Quan Thánh 66: Thượng Thượng 第六十六号簽 上上耕耘只可在鄉邦何用求謀向外方見見今年新運好門蘭喜氣事双双碧仙注自家安份莫他求自有榮華切莫憂喜得一陽天氣象也知秋煖勝三秋 Âm: Canh vân chỉ khả tại hương bang,Hà dụng cầu mưu hướng...
Giới luật Mật Tông Chân truyền
Giới luật cho người hữu duyên được bề trên chọn và Chuyển Thần lực dạy Mật Tông Chân truyền -...
CHƯƠNG II: IV – MẬT TÔNG TẠI CÁC NƯỚC ĐÔNG NAM Á
IV. MẬT TÔNG TẠI CÁC NƯỚC ĐÔNG NAM Á Mấy xứ Tích Lan (Sri Lanka), Xiêm (Thái Lan), Cao Miên...
Bài 18: Pháp Vàng Độ Đất Hớn Bang
Có người hỏi lão thế này: “Làm sao mới được Đức Thầy truyền trao Linh phù ấn khế nhiệm mầu...
Bài 120: Pháp Mật khai tâm
Chớ nên trì hoãn lần hồi! Cửa Trời rộng mở, kịp thời bước vô Pháp Mật như ánh hải hồ...
CHƯƠNG I: II – ADHISTANA (PHẦN 2/6)
II. ADHISTHANA Hán văn thường dịch là Thần Lực, Uy Lực hay Gia Trì Lực. Nó là năng lực, ý...
PHẦN 8 – TỬ NHA ĐỐT QUỈ HÓA TỲ BÀ
Bây giờ, nói về ngoài cửa Nam, tại mả Huỳnh Đế, có con ngọc thạch Tỳ bà, trước kia là...