III. LƯỢC SỬ MẬT TÔNG NHẬT BẢN
Giáo Tướng và Sự Tướng của Mật Tông ở Trung Hoa được mang về Nhật Bản do bốn vị đại sư và những vị khác. Ngay từ đó Mật Giáo được tổ chức và hệ thống hóa hoàn bị[1] nhờ bàn tay tài tình của Không Hải (KUKAI), tức Hoằng Pháp Đại Sư (KOBO) tại Cao Dã Sơn (KOYOSAN). Hoằng Pháp Đại Sư, tổ sư của Chơn Ngôn Tông tại Nhật, là nghệ sĩ đầu tiên và lỗi lạc nhất về điêu khắc và thư pháp. Thể cách văn học của ông được ngưỡng mộ ở cả Trung Quốc lẫn Nhật Bản. Mật Tông hay Kim Cang Thừa có thể tiêu biểu nơi Hoằng Pháp Đại Sư, là người tập thành[2] toàn bộ Mật Giáo tại Nhật. Để tìm hiểu vị trí của Mật Giáo cần lược khảo lịch sử của Phật Giáo trong quá trình văn minh do Phật pháp mang đến cho xứ này.
1. PHẬT GIÁO NHẬT BẢN
Phật Giáo được truyền vào Nhật Bản từ Triều Tiên vào năm 552 hay 538. Đầu Tây lịch, khi vua KUDARA cống hiến Khâm Minh Thiên Hoàng (KIMMEI) một tượng Phật Thích Ca bằng đồng cùng một số kinh điển và đạo cụ. Khoảng năm mươi năm sau khi du nhập chính thức, Thánh Đức Thái tử (574–622) lên ngôi nhiếp chính và Ngài đã xây nhiều ngôi chùa mỹ lệ ở Nại Lương (NARA) và vùng phụ cận, trong số đó có chùa HORYYUJI (Pháp Long Tự) nay vẫn còn tồn tại. Thái tử lại là một đại học giả và đã sớ thích[3] nhiều bản kinh như Pháp Hoa (PUNDARIKA), kinh Thắng Man (SRIMALA) và kinh Duy Ma Cật (VIMALAKIRTI).
Phật Giáo thời này chưa chia thành các tông phái rõ rệt như ngày nay. Nhưng có đến sáu trường phái đã phát huy trong thời Nại Lương (NARA). Đó là: A–tỳ–đạt–ma câu xá (KUSHA), Thành thật (JOJISU), Pháp Tướng (HOSSO), Tam luận (SANRON), Luật (RITSU), Hoa Nghiêm (KEGON). Tất cả đều là những sản phẩm bác học, một nền triết học mới, một khoa học mới, một tôn giáo mới, một văn hóa mới và là kho tàng vô tận cho những động lực nghệ thuật. Chùa Phật là các trường học, bịnh viện, thí dược viện, cô nhi viện, dưỡng lão viện mà chư tăng là các nhân viên điều hành và tất cả chi phí đều do nhà vua tài trợ. Có lẽ sự trưởng thành của Phật Giáo trong thời buổi đầu đã được nuôi dưỡng quá lãng phí và quá hời hợt. Vào thế kỷ thứ VIII, nó trở thành gánh nặng cho quốc gia. Phần các tăng ni được đặc ân lại đã tỏ ra quá ích kỷ. Phần trong đạo giáo, những cái chánh yếu bị hy sinh cho những cái thứ yếu được trưng bày ra. Nên đã đến lúc Phật Giáo phải được chuyển hướng. Phật Giáo Nại Lương (NARA) phải được thay thế bởi Phật Giáo Bình An (HEIAN).
Cuối thế kỷ thứ VIII, Hoàng Vũ Thiên Hoàng (KANMU) thiên đô[4] từ Nại Lương (NARA) đến kinh đô KYOTO. Trái với truyền thống từ trước, Ngài bỏ lại tất cả những đền đài ở Nại Lương và cho thiết lập những đền đài mới trên núi “Tỉ Duệ” (HIEI) ở phía nam kinh đô. Những nhà lãnh đạo mới Phật Giáo, Truyền Giáo Đại Sư và Hoằng Pháp Đại Sư, hai ngôi sao lớn nhất, sáng chói, đã tiến bước lên vũ đài. Mật Giáo khởi đầu hưng thịnh.
2. MẬT TÔNG TẠI NHẬT
Ở tại Nhật có đến hai phái Mật Giáo: Thai Mật (TAIMISU) được truyền từ Thiên Thai Tông bởi Truyền Giáo Đại Sư và Chơn Ngôn Tông được truyền vào Đông Tự (TOJI) bởi Hoằng Pháp Đại Sư. Cả hai không có gì khác nhau về Giáo Tướng,[5] nhưng về Sự Tướng thực hành[6] thì Đông Mật là một tông phái đặc biệt vì nó phổ biến hơn Thai Mật. Cả hai cùng đồng quan niệm về Phật Thích Ca và Đại Nhựt, và thêm nữa trong việc áp dụng lý thuyết này vào Thần Đạo (SHINTO) ở Nhật. Học giả tham khảo về sự liên hệ giữa Thần Đạo và Phật Giáo cần thông rõ điều này, vì từ ngữ được dùng trong Thần Đạo như Lương Bộ (RYOBU) và Nhất Chân (ICHIJTSU) bắt nguồn từ sự sai biệt về tư tưởng của hai phái Mật Tông này.
A. THAI MẬT
Truyền Giáo Đại Sư (DENGYODAISHI 767–823) là sơ tổ của Thai Mật. Khách đến thăm KYOTO sẽ dễ dàng nhận ra ngọn núi Tỉ Duệ (HIEI) đứng ở đầu, vì nó cao nhất, sừng sững ở phía đông của đô thị. Đó là vị trí được Truyền Pháp Đại Sư chọn để thiết lập Thiên Thai Tông của Phật Giáo, còn được gọi tại Nhật là Thai Mật. Ngài là một trong những nhà tu Phật đầu tiên nhận chân được những nguy hiểm của đời sống đô thị, mà những người đi trước ngài thụ hưởng quá nhiều. Ngài không những là một bậc thầy thông suốt nền triết lý rắc rối của Thiên Thai Tông mà còn là một học viên sâu sắc về các nghi điển thần bí của Mật Giáo Trung Hoa và phép tu thiền định. Tham vọng của ngài là dung hội hết thảy các tông phái của đạo Phật thịnh hành đương thời.
Tất cả những phái mới của đạo Phật sau này trong thời Kiếm Thương (KAMAKURA) có thể tìm thấy dấu vết trên núi Tỉ Duệ, thủ phủ của Truyền Giáo Đại Sư. Truyền Giáo hình như quá tách biệt với thế gian, Tỉ Duệ vẫn cô liêu dù ở gần thị tứ. Những tông phái cũ của triều đại Nại Lương cố nhiên là những đối thủ của các nhà lãnh đạo mới, không chỉ vì lý do tình cảm mà còn cả về những tông chỉ sai biệt. Truyền Giáo thuộc Thiên Thai Tông chủ truyền đường lối Nhất Thừa[7] của kinh Pháp Hoa, trong khi các tông phái bảo thủ cũ lại theo tông chỉ Pháp Tướng (YOGACARA),[8] bất đồng ý về việc quy nguyên[9] Thanh Văn[10], Duyên Giác[11] và Bồ Tát Thừa[12] vào một thừa duy nhất của kinh Pháp Hoa.
B. ĐÔNG MẬT
Hoằng Pháp Đại Sư thuộc một mẫu thiên tài khác. Ông là người đa tài nhất trong số các vĩ nhân: một học giả uyên áo,[13] một nhà khổ tu,[14] một du khách lịch lãm, một nghệ sĩ lỗi lạc, một người hoạt bát và một tay thư pháp cừ khôi. Chủ đích nghiên cứu của ông là kinh Đại Nhựt (MAHAVAIROCANA SUTRA) và kinh Kim Cang Đảnh (VAJRASEKHARA SUTRA). Đó là hai khóa bản[15] lớn của Chơn Ngôn Tông. Ở Trung Hoa, ngài là môn đệ của Huệ Quả (KEIKNA) và kế thừa làm đệ bát tổ[16] của Chơn Ngôn Tông ở Trung Hoa và là sơ tổ của Mật Tông tại Nhật. Khi về nước, ngài đã chọn Cao Dã Sơn (KOYASAN) làm thủ phủ cho Chơn Ngôn Mật Giáo tại Nhật. Ngài thích có một tăng viện trong các núi non nhưng lại vẫn giữ mối liên lạc với thế gian một cách chặt chẽ. Đông Tự (TOJI) ở phía nam KYOTO thường là nơi ghi lại những dấu chân của ngài tại kinh đô.
Cao Dã Sơn hoàn toàn là một địa điểm không thể đến so với núi Tỉ Duệ của Truyền Giáo, nhưng khách hành hương tụ hội về đó mỗi năm nhiều biết mấy! Núi ấy trong khi đó ở tại vùng xa xôi của một thành phố nhỏ. Tiểu sử linh diệu của Hoằng Pháp Đại Sư thường được nhiều người hâm mộ. Ngài sanh năm 774, thuộc con nhà quý tộc. Ông là một người hay lạ, huyền bí, khác phàm vừa là một nhà triết học, mỹ thuật, thông thái vừa lại nổi tiếng về các pháp thần thông. Có nhiều việc linh do chính tay ngài làm. Trong lúc mới tu, còn ở trong thời kỳ sa di, Ngài đã từng chống cự với đám quỷ đến phá Ngài.
Lần khác ở tại mũi biển xứ MURATO, có một đám rồng ở dưới nước hiện lên khuấy Ngài trong khi thiền định. Ngài liền niệm Chơn Ngôn mà đuổi chúng nó và thâu ánh sáng của vì sao hôm vào miệng và phun lên mình bọn rồng đó. Dịp khác, Ngài ngồi nhập định tại một cái am do Ngài tự cất, một đám hung thần liền đến làm rộn Ngài, liền khi ấy Ngài vẽ một vòng phép, rồi Ngài ngồi điềm nhiên trong ấy, bọn hung thần chẳng làm chi được và không thể lướt vào. Nhiều khi trong óc của Ngài đã chế ra nhiều kiểu vòng phép, nhiều lá linh phù sử dụng rất hiệu quả. Buổi thiếu niên, cũng như các thanh niên quý tộc khác, Ngài vào học trường đại học để sau này ra làm quan. Nơi ấy Ngài chịu ảnh hưởng tinh thần đạo Khổng. Song Khổng Giáo với phong hóa[17] lễ nghĩa chẳng vừa với cái tâm của Ngài. Ấy là cái tâm muốn thấu qua kinh tạng Phật và cõi đời đặng đạt đến cái chỗ ẩn mật của tư tưởng Phật và cuộc thần bí[18] bao giăng chung quanh con người.
Kế đó Ngài học qua Lão Giáo, tự học lấy một cách sốt sắng chớ chẳng cần tới thầy. Thấy Lão Tử rõ thông nhiều chỗ sâu thẳm huyền bí, Ngài ngụ ý mà biết một cách quả quyết rằng mỗi vật đều có hai bề. Một bề ngoài và một bề trong, một bề Hiển và một bề Mật, một cái chơn lý phát hiện và một cái chơn lý ẩn nhẹm. Tư tưởng của Phật cũng ở trong cái luật ấy. Các nhà thành đạo là những người đã đứng vào mặt trong. Sức mạnh của các Ngài dầu lớn, song chưa đủ giải thoát cho loài người.
Vậy các Ngài nương lấy tông Chơn Ngôn mà cứu nhân độ thế và dùng các phương tiện dẫn độ, những cuộc hành lễ mà đưa sự huyền diệu anh linh trong vũ trụ vào tâm của mọi người. Năm hai mươi bốn tuổi, Hoằng Pháp giác ngộ sau nhiều cuộc trầm tư mặc tưởng, nhân một hôm nhập định phép Đại Hải Tam muội,[19] Ngài thấy Phật hiện đến chỗ Ngài.
Vòng Phép
Năm 804, Ngài sang Tàu thọ lãnh chơn truyền, nối dây liên lạc của chư Tổ từ Đức Thế Tôn. Lần gặp Ngài đầu tiên, Huệ Quả Thất Tổ Chơn Ngôn Tông dạy rằng: “Ta chờ ngươi đã lâu.” Bốn tháng sau, Tổ ban phép Quán Đảnh cho Hoằng Pháp và nói rằng: “Đức Đại Nhựt Như Lai truyền đạo cho Đức Kim Cang, Đức Kim Cang truyền đạo cho Ngài Long Thọ, truyền nối như vậy mãi đến ta. Ta nay thấy ngươi đáng thọ pháp, nên ta truyền cho ngươi để ngươi về phổ độ nơi quê hương.”
Năm 806, Hoằng Pháp trở về Nhật. Được nhà vua khuyến khích, Ngài liền lập một tu viện tại Cao Dã Sơn để hoằng hóa[20] Chơn Ngôn Tông. Ngài truyền bá học thuyết Chơn Ngôn và độ thế rất mạnh. Danh tiếng của Ngài thật lẫy lừng.
Ngày nay Chơn Ngôn Tông tại Nhật có hơn mười ngàn ngôi chùa và tín đồ lên đến hàng chục vạn người. Các hệ phái của tông này kể cả Thai Mật có cả hai trường đại học và hai trường trung học. Mỗi năm đều có xướng xuất[21] ra cả trăm cuộc bố thí và chuẩn bần.[22] Mật Tông đã được tu tập bởi các thành phần thượng lưu trí thức ở đây. Năm 835, biết rằng phần việc của Ngài ở thế đã mãn, Hoằng Pháp Đại Sư ngồi nhập định và thị tịch.[23]
[1] Hoàn bị: Đầy đủ, không thiếu sót gì.
[2] Tập thành: Gom góp lại mà nên.
[3] Sớ thích: Giải thích thêm cho đầy đủ.
[4] Thiên đô: Dời nơi đặt triều đình.
[5] Giáo Tướng: giáo thuyết truyền dạy, lý thuyết kinh điển.
[6] Sự Tướng thực hành: phương pháp tu hành, cách thức tu tập.
[7] Chữ “nhất” có nghĩa là một, thừa có nghĩa là cỗ xe, mang ý nghĩa biểu tượng cho sự chuyên chở chúng sanh đến bờ giác ngộ. Nhất Thừa có nghĩa là giáo pháp duy nhất của Phật Giáo có công năng làm cho tất cả chúng sinh đều thành Phật, nên gọi là Nhất Thừa.
Truyền Giáo Đại Sư truyền bá tư tưởng Nhất Thừa, cho rằng chỉ có duy nhất một pháp môn mới có thể tu thành Phật. Trái lại, các tông phái khác tin rằng con người có căn cơ tu hành khác nhau, nên cần phải có nhiều loại giáo pháp khác nhau để phù hợp với từng người. Chính vì vậy mới có Bồ Tát Thừa, Duyên Giác Thừa và Thanh Văn Thừa.
[8] Pháp Tướng tông: là một trong tám tông phái Phật Giáo tại Nhật Bản và chủ trương tất cả mọi hiện tượng, sự vật, chúng sanh trong vũ trụ được tạo lập là do sự nhận thức của con người.
[9] Quy nguyên: Dồn lại về một gốc, quy về nguồn gốc ban đầu.
[10] Thanh Văn: Có nghĩa là nghe âm thanh thuyết pháp của chư Phật mà tỏ ngộ được đạo. Thanh Văn Thừa dạy về tứ diệu đế (giáo lý nói về sự khổ đau, nguyên do của khổ, kết quả của sự diệt khổ và phương cách để diệt khổ).
[11] Duyên Giác: Chỉ những người tự tu, học theo giáo lý thập nhị nhân duyên mà đạt được giác ngộ.
[12] Bồ Tát Thừa: Là tên gọi khác của Ðại Thừa. Trong khi Thanh Văn Thừa và Duyên Giác Thừa chỉ chú trọng đến sự tự chứng ngộ là đủ, thì Bồ Tát Thừa ngoài chú trọng đến tự giác ngộ còn hướng đến sự cứu độ chúng sanh, giúp cho người khác cũng đạt được giác ngộ.
[13] Uyên áo: Uyên bác, sâu kín khó hiểu.
[14] Khổ tu: tu hành theo lối khổ hạnh.
[15] Khóa bản: Sách giáo khoa, kinh sách chính thức.
[16] Đệ bát tổ: Vị tổ sư thứ tám trong dòng truyền thừa.
[17] Phong hóa: Phong tục, tập quán và nếp sống của một vùng.
[18] Cuộc thần bí: Những sự việc, tình huống siêu hình, huyền bí. Những bài kinh Vô tự trong cuộc sống.
[19] Đại Hải Tam muội: Tâm an định giống như biển lớn sóng lặng gió yên, nước trong phẳng lặng, có thể phản chiếu mọi hiện tượng.
[20] Hoằng hóa: Truyền thụ tư tưởng, tri thức, hướng dẫn và khuyến khích, đem đến sự cứu độ rộng rãi.
[21] Xướng xuất: Đứng ra hô hào làm việc gì.
[22] Chuẩn bần: Tế bần. Cứu giúp người nghèo khổ.
[23] Thị tịch: Ý nói các vị cao tăng qua đời. Cũng gọi là viên tịch, quy tịch, tịch diệt, tịch.
Bài Viết Liên Quan
Bài 142: Giữ gìn sức khỏe
Con người vất vả sớm hôm, Đổi bao sức khỏe để gom bạc tiền. Tưởng rằng cuộc sống bình yên,...
Bài 117: Vườn thanh tâm
Đá ngồi lặng giữa cỏ hoa, Nước trong khe suối lượn qua mượt mà Gió đưa cành liễu la đà...
Giải Ếm Long Mạch
Bài 121: Làm người sang
Người sang chẳng bởi xiêm y Chẳng do trang sức mang đi bên mình Dẫu xài hàng hiệu lung linh,...
Xăm Quan Thánh 43
Xăm Quan Thánh 43: Trung Cát 第四十三号簽 中吉一紙官書火急催扁舟速下浪如雷雖然目下多驚險保汝平安去復回碧仙注先驚水星驚後喜方為喜若問謀多事連綿無定止 Âm: Nhất chỉ quan thư hỏa cấp thôi,Biển chu tốc hạ lãng...
Xăm Quan Thánh 65
Xăm Quan Thánh 65: Thượng Thượng 第六十五号簽 上上朔風冷冷正窮冬多羡門庭喜氣濃更入新春人事後衷言方得信先容碧仙注不意反成肖意歸入門一卦見仙機當時險阻皆平靜百事和諧没是非 Âm: Sóc phong lẫm lẫm chính cùng đông,Đa tiệm môn đình hỷ...
Bài Pháp Số 7: Đại Bồ Tát Duy Ma Cật Thuyết Pháp Cho Tu Bồ Đề
Tôn giả Tu Bồ Đề (Subhūti) là một trong mười đại đệ tử của Phật Thích Ca. Ngài nổi tiếng...
TẬP SAN MẬT PHƯỚC SỐ 6
Độc giả nhấn vào nút bên dưới để xem bản đầy đủ của Tập San Mật Phước Số 6. Xuất...