CHƯƠNG II: IV – MẬT TÔNG TẠI CÁC NƯỚC ĐÔNG NAM Á

IV. MẬT TÔNG TẠI CÁC NƯỚC ĐÔNG NAM Á

Mấy xứ Tích Lan (Sri Lanka), Xiêm (Thái Lan), Cao Miên (Campuchia), Miến Điện, Lào, Nam Dương (Indonesia), Mã Lai (Malaysia) đều thuộc về Phật Giáo Tiểu Thừa hay là Nam Tông Phật Giáo.

Kinh Phật chép rằng về đời vua A–dục, đạo Phật ở Ấn đã truyền qua Tích Lan rồi. Hoàng tử con vua A–dục là MAHENDRA đã sang truyền đạo Phật ở Tích Lan. Ngài đem theo ba tạng kinh, rồi các danh sư đến và dịch tiếng bản xứ. Đạo Phật được truyền đến các nước Đông Nam Á cũng chính vào đời vua A–dục. Ở các nơi này người ta tu học cũng chính đáng và nghiêm trang lắm. Mặt khác, Mật Giáo được phổ biến tại các nước trên đây cùng một lúc với sự phổ biến Mật Giáo tại Trung Hoa và Tây Tạng.

Sử có ghi ngài Bất Không gặp ngài Kim Cang Trí tại Nam Dương năm 720. Sự kiện này chứng tỏ ngài Kim Cang Trí đã du hóa[1] hoằng bá[2] đạo pháp tại nơi đây vào lúc bấy giờ. Và cũng vào năm này, Bất Không đã xin làm đệ tử của Kim Cang Trí, và ông cùng thầy sang Trung Hoa để tu tập hơn hai chục năm tại Lạc Dương. Sau khi thầy mất, ông sang Tích Lan và gặp ngài Long Trí Tam Tạng và dẫn đệ tử cả thảy ba mươi bảy người đến tham vấn Pháp Sư Phổ Hiền (SAMANTABHADRA) lúc bấy giờ đã có mặt tại Tích Lan nghiên cứu thêm về giáo lý của kinh Kim Cang Đảnh và Đại Nhựt Thai Tạng. Ông trở về Tràng An và mang theo một số kinh điển phong phú.

Các sự kiện trên đây đã chứng minh cho sự truyền thừa Mật Giáo do các Pháp Sư Ấn Độ hoằng hoá tại các nước Đông Nam Á cũng đồng thời điểm tại các nơi khác. Hơn nữa Mật Giáo được phổ biến tại đây cũng bằng một số lượng kinh điển Mật Giáo không kém gì tại Tây Tạng và Trung Hoa.

Ở Xiêm, Miến Điện, Lào, Campuchia, các sư đều có tu tập Mật Pháp. Đa số các vị đều nổi danh về những năng lực thần bí và được dân chúng rất kiêng nể. Một số các vị đã đạt được những năng lực kỳ bí thượng thừa mà dân gian thường truyền tụng.

Riêng tại Việt Nam sau Đinh, Lê, Lý, Trần các chùa Việt không có ai đắc truyền về Mật Giáo, nên không có sư đệ tương truyền.[3]

Năm 1928, cụ Khánh Hòa có thỉnh ba tạng kinh của Tàu, Nhật đem về Việt Nam. Cho mãi đến năm 1970 không có ai dịch phần Mật Giáo trong Đại Tạng đâu; hoặc có dịch cũng rải rác, không đáng kể. Các chùa đâu đâu vào lúc bốn giờ sáng cũng có trì tụng khóa bản của Mật Giáo như Đại Bi và Thập Chú. Hơn nữa, trong các thời kinh sáng, trưa, tối… các sư ở Việt Nam cũng như ở Nhật Bản đều có trì tụng Đại Bi để khởi đầu các thời kinh. Chú Đại Bi được rút ra trong kinh “Thiên Thủ Thiên Nhãn Đại Bi Tâm Đalani”, một bản kinh chú lớn của Mật Giáo được mỗi tín đồ Phật tử tại Việt Nam biết đến và trì tụng. Dù thế khi được hỏi về tông phái Mật Giáo, các Phật tử gần như không biết đến. Nhưng lạ hơn thế, chính ngay các cao tăng cũng ít người hiểu rõ nên đôi khi lại có những thành kiến sai lầm về Mật Giáo rất tai hại, mặc dù vẫn trì tụng thần chú mỗi ngày.

Thỉnh thoảng cũng có một số sư, tăng tu tập Mật Pháp nhưng đều có tánh cách ai coi nấy thực hành, không được sự tương truyền từ các bậc Quán Đảnh Sư. Thế nhưng vì tâm đạo bền vững, đạo hạnh trong sáng, nguyện lực độ tha tương ứng với tâm nguyện của Chư Phật và Bồ Tát nên cũng đã đạt được các thần lực bí nhiệm của Mật Giáo từ Chư Tôn bên trên gia trì và làm hiển lộ được các sự kỳ bí thần thông để cảm hóa người thế. Các chư vị đã xứng đáng thọ hưởng pháp lạc cho riêng mình nhưng vì thiếu sự tương truyền nên không thể ban phép “Quán Đảnh” cho các đệ tử. Do đấy, Mật Giáo tại Việt Nam cũng vẫn giữ mãi tánh cách bí truyền mà người thọ nhận vẫn là một ít người được chọn lọc. Thời gian qua một số vị tu tập Mật Pháp có vị thế quan trọng ở Việt Nam được nhiều người biết đến; có thể kể ra đây:

– Thượng tọa Thích Viên Đức đã được hòa thượng Vạn Ân và hoà thượng Từ Thạnh ở Phú Yên trao truyền ấn khế bí mật. Ngài đã tu tập và đạt được các thần lực đáng kể về việc trị các bịnh tim nan y bằng linh phù và nhiều việc kỳ bí khác đã được truyền tụng do Ngài thực hiện…Có thể nói thực sự ông đã có công dịch thuật và hoằng bá các bản kinh Mật Giáo thuộc phần Mật bộ của bộ Đại Tạng Kinh Trung Hoa. Việc học tập Mật Giáo bắt đầu hưng thịnh do việc mạnh dạn phổ biến các bản kinh của Mật Tông bằng tiếng Việt. Ông đã dịch thuật rất nhiều, có thể kể sơ lược như: Kinh Hiển Mật Viên Thông. Kinh Chuẩn Đề Đalani. Kinh Đại Thừa Bảo Trang Nghiêm Vương. Kinh Mạt Pháp nhất Tự Đalani. Kinh Đại Bảo Quảng Bác Lầu Các Thiện Trụ Bí Mật Đalani. Kinh Bảo Nhiếp Ấn Đalani. Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng và một số bản kinh quan trọng khác nhất là quyển “Đông Mật,” gồm hơn khoảng trăm quyển kinh của Mật Giáo.

Thật sự về phần giáo pháp, thượng tọa đã đóng góp công đức rất nhiều về mặt giáo điển cho người Việt Nam về Mật Tông Phật Giáo. Tuy nhiên vì thiếu chơn truyền mạch lạc về phép “Quán Đảnh” nên Mật Giáo chỉ được hưng thịnh về phần Giáo Tướng còn về Sự Tướng thì thượng tọa cũng không thể truyền bá được, dầu ngài đã đạt được nhiều thần lực đáng kể.

Ngoài ra còn phải kể đến hòa thượng Thích Phổ Ứng tại Linh Quang Tịnh xá ở đường Nguyễn Khoái, Khánh Hội, Sài Gòn. Hàng ngày ông đã chữa trị công khai cho những người bị bịnh tà và đã thi triển được nhiều kỳ bí trước mặt các Phật tử. Tuy nhiên, ông không có ý hướng hoằng truyền bí pháp cả về Sự Tướng và Giáo Tướng. Có lẽ ông coi Mật Giáo là một pháp môn khó tu tập và chỉ dành đặc quyền cho người xuất gia và hơn thế nữa phải là những người được chọn lọc.

Còn phải kể thêm thượng tọa Thích Thiền Tâm người hoằng truyền pháp môn Tịnh Độ. Ông đã kiêm trì[4] Mật Giáo và đạt được những thần lực đáng kể; và ông cũng đã dịch được một số kinh Mật Giáo và đem ra hoằng hóa gần đây. Tuy thế ông không thể thực hiện các chi phần Quán Đảnh của Mật Giáo vì thiếu sự chơn truyền. Tóm lại các thượng tọa và các đại đức khác ở Việt Nam có tu tập Mật Giáo đều không thể trông cậy nhiều vào việc hoằng truyền Sự Tướng, nhất là làm lễ điểm đạo truyền pháp theo phép Quán Đảnh của Mật Tông. Do đó người trì chú khó mong đạt được những ước vọng cao, và nếu vậy thì nào có khác gì những tông phái Hiển Giáo trì Đại Bi, Thập Chú.


[1] Du hóa: Du hành khắp nơi để giáo hóa chúng sanh.

[2] Hoằng bá: Phát dương, truyền bá Phật pháp rộng rãi khắp nơi. Đồng nghĩa với Hoằng truyền (Hoằng pháp – Truyền bá).

[3] Sư đệ tương truyền: Ý nói huyết mạch truyền thừa, sư phụ đời trước truyền lại cho đệ tử đời sau.

[4] Kiêm trì: Theo đuổi cùng lúc, đồng thời với điều gì khác

0 0 votes
Article Rating
Nhận Thông Báo
Thông báo khi
guest

Bài Viết Liên Quan

mật phước tự phương cách giúp việt nam

Bài 36: Phương Cách Giúp Dân Tộc

Nghĩ suy mấy chuyện cõi phàm. Để xem Trời muốn Việt Nam thế nào Nước ta đã trải nhiều trào...

quan thánh đế quân hộ mạng

Xăm Quan Thánh 59

Xăm Quan Thánh 59: Trung Bình 第五十九号簽 中平門衰户冷苦伶仃自嘆祈求不一靈幸有袓宗陰騭在香烟未斷續螟蛉碧仙注赦寛之後可榮華福有生來富貴家凡事前緣宜有合到門當户心堪誇 Âm: Môn suy hộ lãnh khổ linh đinh,Tự thán kỳ cầu bất...

xăm quan thánh đế quân

Xăm Quan Thánh 23

Xăm Quan Thánh 23: Hạ Hạ 第二十三号簽 下下花開花謝在春風貴賤窮通百嵗中羡子榮華今己謂到頭萬事總成空碧仙注此簽不大中花開遇烈風不利老人占病訟盡皆兇 Âm: Hoa khai hoa tạ tại xuân phong,Qúi tiện cùng thông bách...

xăm đức thánh trần

LINH XĂM ĐỨC THÁNH TRẦN HƯNG ĐẠO – QUẺ SỐ 21

QUẺ SỐ 21 – ĐẠI CÁT TRIỆU Thiên tướng cát nhân. DỊCH Trời giúp người lành. TỔNG THI Bất thức...

quan thánh đế quân hộ mạng

Xăm Quan Thánh 65

Xăm Quan Thánh 65: Thượng Thượng 第六十五号簽 上上朔風冷冷正窮冬多羡門庭喜氣濃更入新春人事後衷言方得信先容碧仙注不意反成肖意歸入門一卦見仙機當時險阻皆平靜百事和諧没是非 Âm: Sóc phong lẫm lẫm chính cùng đông,Đa tiệm môn đình hỷ...

quan thánh đế quân hộ mạng

Xăm Quan Thánh 61

Xăm Quan Thánh 61: Trung Bình 第六十一号簽 中平嘯聚山林兇悪俦善良無事苦煎憂主人大笑出門去不用干戈盗賊休碧仙注心驚如踏一層冰果敬反成度量生一葦一航波浪定駸駸喜色靄門庭 Âm: Tiếu tụ sơn lâm hung ác thù,Thiện lương vô sự khổ...

Lễ điểm đạo mật pháp thiên đình

Bài 110: Phép điểm đạo

Học trò hỏi Thầy một câu Bắt đầu tu học từ đâu vậy Thầy? Muốn tu thì điểm đạo ngay...

xăm đức thánh trần

LINH XĂM ĐỨC THÁNH TRẦN HƯNG ĐẠO – QUẺ SỐ 8

QUẺ SỐ 8 – HẠ HẠ TRIỆU Ngạ hổ phùng dương. DỊCH Hổ đói gặp dê. TỔNG THI Tứ dã...

0 Comments
Bình chọn nhiều nhất
Mới nhất Cũ nhất
Inline Feedbacks
Xem tất cả bình luận
Chia Sẻ Bài Viết