CHƯƠNG III: I- TÔN CHỈ VÀ GIÁO LÝ CĂN BẢN

CHƯƠNG III: TÔN CHỈ VÀ GIÁO LÝ CĂN BẢN

Giáo thuyết của Mật Pháp được ghi chép lại trong nhiều bộ kinh khác nhau. Tất cả được tập thành trong phần “Mật Bộ” thuộc bộ Đại Tạng Kinh của Trung Hoa và bằng các loại chữ khác. Tuy thế, phần Mật Giáo được ghi chép bằng chữ Hán do các vị Pháp Sư vâng chiếu của các vị vua Trung Hoa sùng đạo dịch từ chữ Phạn sang chữ Hán được coi là có tánh cách truyền thống và đầy đủ hơn cả. Trong đó phải kể đến ba bộ kinh được coi là quan trọng hơn hết vì nó trình bày gần đầy đủ những tôn chỉ và giáo lý căn bản của Mật Giáo. Đó là:

– kinh Đại Nhựt (MAHAVAIROCANA SUTRA) thuyết về MANDALA được truyền bá mạnh nhất tại miền Nam Ấn, và tông đồ lập thành phái Thai Tạng Giới;

– bộ kinh Kim Cang Đảnh (VAJRASEKHARA SUTRA) lập thành phái Kim Cang Giới được truyền bá tại mạn Đông;

– và bộ thứ ba là kinh “Tô Tất Địa”[1] để chỉ bày Chơn Ngôn, đàn pháp, luật tắc cho hành giả tu tập để đắc thành tất địa.[2]

Ngoài ra hằng trăm bộ kinh khác của Mật Giáo cũng đã được đúc kết trong Mật Tạng trên cả ngàn năm nay, tuy thế ít phổ biến về giáo thuyết mà lại thuyết minh nặng về phần phương cách thực hành và oai lực của thần chú do kinh tuyên thuyết.

Các bộ kinh này có thể kể một ít như sau: Kinh Bí Mật Tạng Đarani, Kinh Bảo Tịnh Đarani, Thủ Hộ Quốc Giới Chủ Đarani Kinh, Diệp Y Quán Tự Tại Bồ Tát Kinh, Kinh Tô–bà–ha Đồng Tử, Kinh Bồ Đề Trường Trang Nghiêm Đarani, Kinh Tối Thắng Tổng Trì, Kinh Đại Bảo Quảng Bác, Kinh Mạt Pháp nhất Tự Chú, Kinh Thánh Lục Tự, Kinh Phổ Hiền Đarani, Kinh Văn Thù nhất Tự Chú, Kinh Diệu Tý Đồng Tử, Kinh Bất Không Quyến Sách, Kinh Bạch Tán Cái Đarani, Kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đarani, Kinh Như Ý Bảo Luân, Kinh Đại Phật Đảnh, Kinh nhất Thập Diện Quan Thế Âm, Kinh Quán Tự Tại Nghi Quỹ, Kinh nhất Tự Đảnh Luân, Thần Biến Sớ, Mâu Lê Chú Kinh, Kinh Cầu Tức Đắc Đarani, Kinh Vô Cấu Tịnh Quang, Kinh Quán Thế Âm Bồ Tát Bí Mật Tạng Thần Chú, Kinh Đại Thừa Bảo Trang Nghiêm Vương, Kinh Trì Minh Tạng Nghi Quỹ, Kinh Bát Nhã Sớ, Kinh Mạn–đà–la Sớ, Bạch Tán Cái Tụng, Phật Đảnh Tụng, Phật Đảnh Sớ, Kinh Ngũ Tự Đarani, Kinh Đại Giáo Vương…

Để tìm hiểu tổng quát Mật Giáo không gì hơn là tham chiếu hai bộ kinh quan trọng là kinh Đại Nhựt và kinh Kim Cang Đảnh cũng như sẽ khảo sát sơ lược toàn bộ các bản kinh khác trong Mật Tạng.

I. MẬT GIÁO QUA HAI BỘ KINH ĐẠI NHỰT VÀ KIM CANG ĐẢNH

Đại Nhựt Kinh là lược gọi của kinh “Đại Tỳ–lô–giá–na Thành Phật Thần Biến Gia Trì”[3] gồm bảy quyển, được dịch từ Phạn văn sang chữ Hán vào đời Đường, do ngài Thiện Vô Úy và Nhất Hạnh dịch chung. Kinh Kim Cang Đảnh là tên ngắn của “Kim Cang Đảnh Nhất Thế[4] Như Lai Chân Thật Nhiếp[5] Đại Thừa Hiện Chứng[6] Đại Giáo Vương Kinh”[7] gồm ba quyển do Đường Bất Không Tam Tạng Pháp Sư dịch. Hai bộ kinh này trên mặt Giáo Tướng đã giải bày chơn lý, thật tướng của các pháp: Lục Đại, Tứ Mạn, Tam Mật, Thập Trụ Tâm…mà chúng ta cần duyệt xét:

1. LỤC ĐẠI

Mật Tông chủ trương Lục Đại là chơn thật thể[8] của vũ trụ. Lục Đại là Địa Đại, Thủy Đại, Hỏa Đại, Phong Đại, Không Đại và Thức Đại. Lục Đại là bản nguyên[9] của các tánh năng sanh (sanh ra) năng lưu (lưu xuất ra). Trong Lục Đại thì năm Đại trước thuộc về vật, Đại cuối cùng thuộc về tâm (Thức đại). Sáu Đại này mỗi mỗi đều dung thông,[10] không ngăn ngại, thâu nhiếp lẫn nhau, làm nhân làm duyên cho nhau mà sanh ra các pháp.[11]

Lục Đại bao gồm ba phương diện:

– Thể Đại: tức là bản thể chung của vũ trụ.

– Tướng Đại: tức là hình tướng của sự vật và chúng sanh.

– Dụng Đại: tức là ngôn ngữ, động tác, công dụng của mỗi sự vật.

Như vậy vũ trụ vạn hữu không có gì ngoài Thể đại, Tướng đại, Dụng đại. Thể, Tướng, Dụng là chúng ta dùng trí lực chia chúng ra như thế để quan sát. Chứ thực ra, ba phương diện ấy không thể rời nhau, không thể tồn tại riêng rẽ được. Nếu thiếu đi Thể đại thì Tướng đại và Dụng đại cũng không thể có được. Vậy xét một phương diện thì rõ được cả ba.

Như chúng ta thấy ở trên: Sáu Đại dung thông, thâu nhiếp lẫn nhau và ba phương diện: Thể, Tướng, Dụng, cũng không thể rời nhau. Nên vũ trụ vạn hữu, mặc dù muôn hình vạn trạng, rộng lớn vô biên, vẫn có cái lý dung thông[12] vô ngại,[13] châu biến[14] khắp tất cả. Cái đó gọi là Lý Tánh hay Chơn Như.[15] Lý Tánh hay Chơn Như là nồng cốt của Sự Tướng. Nhưng nếu không có Sự Tướng, thì Chơn Như hay Lý Tánh cũng không thể biểu dương[16] được.

Lý Tánh và Sự Tướng là hai khía cạnh tĩnh và động của Nhất Như.[17] Nói tóm lại có Lý tức có Sự, có Sự tức có Lý.

Lý Tánh của vũ trụ vạn hữu cũng tức là Phật Tánh. Như vậy Phật Tánh đều có sẵn trong mỗi chúng sanh, trong mỗi hình thức. Muốn chứng ngộ Phật Tánh, muốn thể nhập Chơn Như, trước tiên phải quan sát Sự Tướng. Sự Tướng có thể gồm trong bốn loại sau đây, tức là bốn MANDALA.

2. BỐN MANDALA

MANDALA có nghĩa là tròn trịa đầy đủ, rộng lớn không lường.[18] Bốn pháp MANDALA, hay “tứ mạn tướng đại” là bốn tướng rộng lớn, đầy đủ của bản thể do sáu đại mà biến hiện ra. Bốn pháp MANDALA là:

a. Đại MANDALA (MAHA–MANDALA). Nghĩa rộng là thân của các loài hữu tình trong mười phương pháp giới,[19] là sắc tướng muôn pháp trong mười phương vũ trụ, y theo lục đại mà hiện. Nghĩa hẹp là chỉ cái sắc tướng[20] trang nghiêm của Phật, Bồ Tát… được thể hiện trong các pho tượng chạm trổ, tô vẻ. v.v…

b. Tam muội gia MANDALA (SAMAYA MANDALA). Nghĩa rộng là hết thảy cơ khí trong vũ trụ, những vật dụng thường ngày của chúng sanh hay rộng hơn nữa là cái đặc tánh riêng biệt của mỗi pháp: núi, sông, cây, cỏ… Nghĩa hẹp là chỉ những vật mà Bồ Tát và Phật thường dùng như hoa sen, ngọc bửu châu, cành dương liễu, chày Kim Cang…để tiêu biểu cho thệ nguyện hay các đặc tánh thù thắng[21] riêng của quý ngài trong việc cứu độ chúng sanh.

c. Pháp MANDALA (DHARMA MANDALA). Nghĩa rộng là hết thảy các loại âm thanh, lời nói, hình ảnh, tên gọi, ký hiệu trong vũ trụ. Nghĩa hẹp là chỉ cho những chủng tử tự hay Chơn Ngôn của các đức Phật hay Bồ Tát. Chủng tử ở đây tức là chữ cái, chữ tiêu biểu cho bản thể của Phật và Bồ Tát, như chủng tử của Đức Đại Nhựt Như Lai chữ “A”, chủng tử của Ngài Kim Cang Tát Đỏa là chữ “HUM.” Còn Chơn Ngôn là Mật chú và là danh hiệu của Phật và Bồ Tát. Chơn Ngôn đại diện cho tất cả văn nghĩa trong kinh điển.

d. Yết ma MANDALA (KARMA MANDALA): Yết ma nghĩa là cử động làm các sự nghiệp. Vậy nghĩa rộng của Yết ma là chỉ cho hết thảy động tác của chúng sanh và muôn vật. Nghĩa hẹp là chỉ cho hết thảy oai nghi, động tác của chư Phật và Bồ Tát để làm các sự nghiệp độ sanh.

Bốn MANDALA trên đồng thời tồn tại, đã có một MANDALA tức phải có ba MANDALA kia. Bốn Mạn này Phật, Bồ Tát, chúng sanh đều có. Bốn Mạn của Phật không lìa bốn Mạn của chúng sanh, bốn Mạn của chúng sanh không lìa bốn Mạn của Phật. Vì thế kinh thường gọi là bốn Mạn không lìa nhau.

3. TAM MẬT

Phương pháp tu hành trọng yếu của Mật Tông là Tam Mật. Tam Mật là phương pháp tu hành mầu nhiệm dựa trên thân, ngữ, ý. Tam Mật gồm có: thân mật, ngữ mật, và ý mật. Như trên đã nói, chúng sanh và Đức Như Lai đều do sáu đại làm thể,[22] bốn pháp MANDALA làm tướng,[23] không sai khác. Như Đức Đại Nhựt có tam pháp giới là thân mật, hết thảy tiếng tăm là ngữ mật, cái thức lớn bao trùm tất cả là ý mật.

Còn chúng sanh thì tay bắt ấn là thân mật, miệng niệm Chơn Ngôn là ngữ mật, tâm chuyên vào Tam–ma–địa[24] (thiền định) là ý mật.

Nhưng Phật và chúng sanh khác nhau ở tịnh và nhiễm, ngộ và mê, giải thoát và ràng buộc. Vậy chúng sanh muốn được như Phật phải tu hành theo pháp Tam Mật. Nhờ tay bắt ấn mà tịnh được thân nghiệp, miệng niệm Chơn Ngôn mà tịnh được khẩu nghiệp, trí quán tưởng Đức Đại Nhựt hay các chủng tử tự hoặc linh phù mà dẹp được vọng tưởng, ý nghiệp được thanh tịnh.

Sự tu hành Tam Mật có thể chia làm hai giai đoạn lớn:

Giai đoạn đầu là Tam Mật Gia Trì. Trong giai đoạn này, sau khi hành giả đã làm chủ được thân, ngữ, ý rồi thì tâm thủy của mình (tâm vắng lặng như nước đứng yên) được ánh sáng mầu nhiệm của Đại Nhựt Như Lai chói rọi vào, tức là “gia” và tâm thủy mình cùng cảm chịu, thu nhận được ánh sáng mầu nhiệm ấy, tức là “trì.” Một bên thì gia, một bên thì trì, hai bên thừa tiếp nhau nên gọi là “Tam Mật Gia Trì.”

Giai đoạn hai gọi là Tam Mật Du–già. Khi Tam Mật gia trì đã thuần thục, thì ánh sáng của Đức Đại Nhựt và ánh sáng trong tâm thủy của hành giả hiệp nhau (DU GIÀ) không sai khác thì gọi là “Tam Mật Du–già.” Đến đây tức là công phu tu hành hữu tướng tam mật đã thành tựu.

Học thuyết Chơn Ngôn Tông coi ba cái Mật này là trọng đại: thân, khẩu, ý. Mỗi vật đều có thân thể, lời nói và tư tưởng. Con người thì nói được, song trong bầu trời những vật khác cũng nói được.

Ta chưa nghe và chẳng tầm mà nghe, ta chớ cho vật là câm. Vật vẫn nói, song ta chưa biết nghe, ta không nghe, thế nên Tông Chơn Ngôn mới gọi là thân, khẩu, ý của vạn vật trong vũ trụ là ba cái mật ẩn, ba cái bí thuật.

Cây cối, cỏ hoa đều nói được hết. Lá xào xạc trên cây, cành khua rắc rắc dưới chiều gió; có khi ta nghe như tiếng ca ngâm; có khi ta nghe như tiếng luận bàn; có khi ta nghe như tiếng nạt nộ. Có dịp ngồi trong một đám rừng sâu và lẵng lặng mà nghe, quý ngài sẽ nhận ra rằng cây cối giống hệt như người, bàn bạc, nói năng, chào mời đủ cách. Tiếng suối trên non rỏ rẽ, kẻ thế thường nhận có bấy nhiêu. Các nhà có cảm, các bậc thi nhân mới mở cái tâm ra, nên nhận là tiếng đờn êm ái, dịu dàng. Mấy trang học đạo biết rõ ràng tiếng suối là lời nói đủ âm, đủ dạng. Một đôi khi ngồi dưới bãi biển, ta nghe sóng vỗ vào gành; có khi chúng nó gọi to, có lúc chúng nó ầm ĩ, dường như bàn tính một sự việc gì.

Mọi vật chung quanh ta, gia cầm, chim chóc đều nói chuyện và ca mừng rất có ý nghĩa. Vạn vật nào phải là câm. Ấy tại loài người chẳng biết nghe đó. Tiếng nói loài người là một thứ tiếng nói trong bao nhiêu những tiếng nói của vũ trụ.

Nếu ta biết tu dưỡng, nếu ta biết để riêng nơi ta một chỗ tinh khiết, nghiêm trang, nếu ta biết giữ luật đạo, thì ta sẽ hiểu tiếng của vật, cho đến Thần, Thánh, Tiên v.v…ta cũng sẽ thấy hình và tiếng nữa. Điều kiện cần thiết là giữ cái tâm trong sạch, những khiếu[25] trong người ta sẽ mở thông và nhận được các sự ẩn kín trong vũ trụ.

Vì người ta thường chấp theo văn tự, học theo sách vở nên chỉ thấy biết những cái bề ngoài mà thôi. Những môn học thường cho họ biết cái bên ngoài của vạn vật, chớ nào có phân giải với họ về những vấn đề siêu hình, huyền bí, ẩn mật và nào có chỉ cho họ được cái chỗ tuyệt đích mà ta mò không tới, trông không ra, suy không nổi đâu! Thật ra đó mới là cái chỗ loài người rất mong.

Họ chỉ thấy vật có hình có thể, chớ họ đâu biết mà nhận ra rằng vật cũng có tư tưởng và lời nói. Vạn vật trong vũ trụ, không trừ vật nào, hễ có hình thể thì có tư tưởng và nói được. Vật nào sống cũng tại tư tưởng, vật là sự phát hiện thành chất của tư tưởng mà tư tưởng lộ ra bằng lời nói, tiếng tăm và dấu hiệu. Không bao giờ có sự lặng thinh mà sự im lặng chính là lời nói ở trong tâm trí. Vậy nên nhờ sự im lặng mà lắm khi vật với vật mới hiểu nhau. Ai mà nhập diệu[26] được hoàn toàn ba cái thân mật, khẩu mật và ý mật thì đắc ngay quả Phật. Chúng ta phải xét kỹ và học hỏi cho lâu mới thấy ba cái mật đó. Từ đây về sau chúng ta đừng phân giai cấp, đừng khinh rẻ vật có mạng sống và vật không có mạng sống.

4. THẬP TRỤ TÂM

Những nhà Phật Giáo Đại Thừa tin rằng giáo lý dị biệt[27] giữa các tông phái và tôn giáo khác nhau đều có ích và cần thiết cho những người có khả năng và viễn ảnh[28] khác nhau. Một số những giáo lý này có tính chất quyền biến,[29] bày ra cho tâm thức non nớt của quần chúng; một số khác mới thật là giáo lý tối hậu[30] chỉ thích hợp cho một giai đoạn tiến hóa nào đó và cho một thiểu số người có một trình độ tâm thức cao hơn. Nhưng tất cả những giáo lý và các tôn giáo đã đóng vai trò xây dựng của chúng trong việc xúc tiến an lạc và phát triển tâm linh nhân loại. Những giáo lý linh thiêng chỉ có một sự dị biệt giữa giáo lý sơ bộ[31] và giáo lý tiến bộ; giữa giáo lý quyền biến và giáo lý tối hậu chứ không giữa giáo lý “trúng” và giáo lý “sai.” Hoằng Pháp Đại Sư (KOBO 774–835) người tập thành toàn bộ Mật Giáo đã phân tích sự phát triển của tâm thức con người và xếp loại thành mười giai đoạn phát triển của tâm, tức “Thập Trụ Tâm.”[32]

Mười bậc tư tưởng trên có ghi trong quyển Đại Nhựt Kinh. Đức Hoằng Pháp Đại Sư ví mười bậc ấy như những thời kỳ của một đóa sen dưới hồ:

1. Dị Sanh Kỳ Dương Tâm:[33]

Những nẻo đường của cuộc sống mù quáng do bản năng điều khiển.

Bậc đầu này là lúc con người còn trong cảnh ngu muội; chẳng hơn gì bọn ở ba cảnh: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Người ta nói rằng những kẻ này sanh ra khác người hiền. Họ sống dưới quyền sai khiến của các sở dục,[34] không biết phân biệt sự phải quấy, thiện ác và chẳng hiểu luật nhơn quả. Họ chỉ biết thỏa thích về ăn uống và dâm dục mà thôi. Ở bên Thiên Trước, người ta gọi hạng này là bọn dê, vì giống vật này khờ khạo và ngu muội hơn hết.

Kìa dưới hồ sen, trước khi nở ra và mọc lên, hoa sen còn là một cái mầm vùi dưới bùn. Ấy là tư tưởng bậc đầu.

2. Ngu Đồng Trì Trai Tâm (Nhân Thừa):[35]

Cố gắng vươn lên cho một đời sống đạo đức.

Bậc thứ hai là cảnh người biết giữ giới, bậc chung của loài người. Ở đây người ta chưa thông hiểu, song tuân theo giáo điều. Người ta giữ lễ tục theo kinh sách và lời truyền dạy từ xưa. Người theo đạo Phật thì trì giữ ngũ giới cấm: tránh sát sanh, trộm đạo, tà dâm, vọng ngữ,[36] và ẩm tửu,[37] nhờ đó khỏi tạo cái nghiệp về miệng và thân.

Người theo Khổng Giáo thì giữ Tam Cang[38] (quân thần, phụ tử, phu thê) và Ngũ Thường (nhơn, nghĩa, lễ, trí, tín). Bên Chơn Ngôn Tông, ở bậc này, kẻ học đạo tham thiền về ba cái ẩn mật: thân mật, khẩu mật, ý mật.

Trổi bước lần đầu, người ta cũng như cọng sen cất mình lên khỏi lầy. Song còn yếu ớt.

3. Anh Đồng Vô Úy Tâm (Thiên Thừa):[39]

Giai đoạn chúng sanh ở cõi Thiên, nỗ lực cho một sức mạnh siêu nhiên.

Bậc này là cảnh trí[40] của người trai trẻ không sợ, đã qua khỏi thời kỳ đáng lo. Tới đây con người tránh được ba cảnh: địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ. Họ lại ngó thấy cảnh tốt của thần tiên. Họ cố gắng trì thập giới[41] của nhà Phật và ưa gần gũi với thiện tri thức, nên chắc khỏi cảnh sa ngã. Người ta cũng kể vào đây phái đồ[42] đạo Lão và đạo Bà–la–môn chơn chánh, hành giả Chơn Ngôn Tông, bậc này tấn hóa khá lắm[43] về thân mật, khẩu mật, và ý mật.

Cảnh này ví như hoa sen mà cành đã ra khỏi nước, vượt lên ánh sáng mặt trời.

4. Duy Uẩn Vô Ngã Tâm (Thanh Văn Thừa):[44]

Thừa của người vươn lên đời sống tâm linh cao đẳng[45] như trong các bộ phái Tiểu Thừa: Câu–xá Tông[46] và Thành Thật Tông.[47]

Ở bậc thứ tư, con người không còn giữ cái “bản ngã.” Con người là một cái tâm trí, biết tham xét để tìm cầu chơn lý. Người ta hiểu được: Không có cái tôi, cái bổn ngã, mà có năm cái uẩn: Sắc (những gì thuộc về vật chất có thể nhìn được hoặc không, còn trong thân thì những gì không thuộc vào các trạng thái tâm lý đều gọi là Sắc), Thọ (những cảm giác về khổ hay vui, những tâm lý vui hay buồn), Tưởng (suy nghĩ hay tưởng tượng), Hành (ý định, suy tư, cân nhắc trước một quyết định, bao gồm tất cả các chủ tâm trước khi một hành động được hình thành), Thức (cái biết của trí, thành phần phân biệt đối tượng của tâm lý). Cái bản ngã tự cao, nguyên nhân của các sự bào ảnh,[48] chính nó cũng là bào ảnh nữa, cái bản ngã ấy cũng không thiệt có nên phải bỏ nó. ­

Cảnh trí này ví như cánh sen còn búp. Chờ khi nắng tới, cái bông búp sẽ nở ra thành một cánh hoa đẹp.

5. Bạt Nghiệp Nhân Chủng Tâm (Độc Giác Thừa):[49]

Tự tu tự hưởng nhưng còn vị kỷ.[50]

Ở bậc này đã thành Phật Duyên Giác. Các Ngài tống ra khỏi tâm những cái tham dục. Các ngài tham thiền về những nhân duyên của lòng tham. Tất cả là mười hai cái nối dài[51] với nhau và cái đầu đảng, cái mầm móng là cái vô minh.[52] Nhờ tham thiền các ngài mới lôi chúng ra khỏi mình. Các ngài trở nên minh,[53] đắc quả Phật Duyên Giác. Đứng về Tông Chơn Ngôn, bậc thứ tư và thứ năm là cảnh trí của nhà tham thiền về cái chẳng có đích thật.

Sự vật tựa hồ như hình rọi vào kính và trăng soi dưới nước. Đời người và cuộc thế[54] tựa hồ như giấc mộng mau qua. Như trên mặt hồ, bông sen rọi xuống rõ ràng, song chẳng qua là bào ảnh.

6. Tha Duyên Đại Thừa Tâm:[55]

Tới đây là bậc của các nhà tu Đại Thừa đủ lòng bác ái giúp đời.

Tuy cuộc thế là mộng ảo chớ cái tư tưởng chẳng phải là ảo mộng. Cái tư tưởng là có thật và mỗi vật đều ở trong đó mà ra, ấy là học thuyết của Pháp Tướng Tông. Cái tướng ta thế nào, đời ta thế ấy. Nó lành thì đời ta êm ái, nhẹ nhàng; nó dữ thì đời ta bối rối phiền lo. Và bao giờ tư tưởng ai thấp kém thì đời người ấy không bao giờ thanh cao được. Lại như ta biết cái bí thuật giải thoát mà không độ thoát cho chúng sanh hưởng nhờ, thời ta không thành Phật được. Giá như đức Phật, không đem giáo lý cứu khổ mà độ cho đời thoát ra khỏi bến mê vô tận thì ngài đâu xứng danh là Phật, là danh Đại Từ Bi được.

Tư tưởng dễ tấn phát, cần phải lo cho người khác tấn phát với. Ví như hoa sen nó dưới hồ, bị cỏ lá bấu vào, mấy cọng sen mới họp nhau lại mà vượt ra khỏi và lướt lên bầu trời một cách vẻ vang.

7. Giác Tâm Bất Sanh Tâm:[56]

Đến bậc này con người đã đạt tới cái tư tưởng “Chân Không,”[57] tức là không phải có và không phải không, cái mực trung thuyết Tam Luận Tông.[58]

Người ta tham thiền về tám cái không: Không sống, Không chết, Không đến, Không đi, Không giống, Không khác, Không có, Không không. Cố sức mà thiền định như vậy, cái tưởng[59] bèn thoát khỏi những chỗ thấp thường[60] mà lên chí những đảnh cao nghiêm, vượt tới cõi trời Trung đạo, trong trẻo và êm đềm. Các nhà tu Chơn Ngôn, bậc thứ sáu và thứ bảy nhập định pháp Du già (YOGA: Hiệp một với Thượng Đế) một cách tự do và dễ dàng.

 Bậc này như hoa sen lên khỏi mặt nước, tuy không phải là thực hẳn chớ không phải là cái bóng rọi trên mặt gương của cái hồ. Không phải thật mà chẳng phải không thật.

8. Nhất Đạo Vô Vi Tâm:[61]

Ở bậc thứ tám, người ta tưởng đến nền đạo chung cho tất cả, Nhất Thừa Vô Vi thuộc theo thuyết Thiên Thai Tông.[62] Mọi vật đều như nhau, đều có cái Phật Tánh. Cái gì cũng có thể thành Phật hết.

Ở đây ví như dưới hồ mà hoa sen mọc lên hứng lấy bóng mặt trời. Khắp cả hồ sẽ có đầy hoa sen! Xinh lịch thay!

9. Cực Vô Tự Tánh Tâm:[63]

Bậc thứ chín đi với thuyết Hoa Nghiêm là thuyết về Hiển Giáo cao hơn hết. Tông Hoa Nghiêm giải rằng cái tuyệt đối cũng là một với cái tương đối, nên nó không giữ cái tánh của nó.

Ta ví bậc tư tưởng này: hoa sen đến lúc đẹp đẽ, sáng rỡ cực điểm, dường như chứa vào nó biết bao sự bi thiết[64] tinh vi.

10. Bí Mật Trang Nghiêm Tâm (Kim Cang Thừa):

Tông chỉ của Chơn Ngôn Tông. Bậc thứ mười là cái tư tưởng tô điểm bằng sự ẩn mật. Đó là tánh chất của Chơn Ngôn Tông. Sự ẩn mật ở đây là ba cái mật: Thân, Khẩu, Ý. Nếu hiểu sự ẩn mật của vũ trụ, thông ba cái mật đó thì thành Phật trong khi sanh tiền. Cũng như khi xem hoa sen, ta chẳng phải thích bằng con mắt không mà thôi. Lại khi thấy hoa sen trải qua nhiều thời kỳ từ lúc còn là một hạt giống cho đến lúc hoàn toàn, nếu ta thấy biết có bấy nhiêu, thì ta là người mờ ám[65] đó. Ta phải hiểu cái cuộc đời bề trong linh hoạt và nhiệm mầu. Cũng như ta hiểu rằng ta có một cái tâm như Phật và hoa sen cũng có cái tâm như ta.

5. TRIẾT HỌC MANDALA.

Kinh Đại Nhựt và kinh Kim Cang Đảnh đã thuyết minh về hai đại hội bí mật là Thai Tạng Giới và Kim Cang Giới MANDALA. Hai MANDALA này Chư Tôn, Chân Ngôn, Ấn Khế và các chủng tử tự đều khác nhau.

Năm phương Phật trong Thai Tạng Giới là:

– Trung ương Đức Tỳ–lô–giá–na.

– Đông phương Bảo Tràng Như Lai.

– Nam phương Khai Phu Hoa Vương Như Lai.

– Tây phương A Di Đà Như Lai

– Bắc phương Thiên Cổ Lôi Âm Như Lai và các chư tôn Bồ Tát.

Năm phương Phật của Kim Cang Giới là:

– Trung ương Đức Đại Nhựt Như Lai.

– Đông phương A–súc–bệ Như Lai.

– Nam phương Bảo Sanh Như Lai.

– Tây phương Vô Lượng Thọ Như Lai.

– Bắc phương Bất Không Thành Tựu Như Lai và các chư tôn Bồ Tát.

Về mặt triết học Thai Tạng Giới lấy Đại Viên Cảnh Trí[66] làm tối sơ,[67] lấy Pháp Giới Trí[68] làm sau rốt.[69] Trái lại Kim Cang Giới lấy Pháp Giới Trí làm đầu tiên và lấy Thành Sở Tác Trí[70] làm chung kết. Triết lý về hai MANDALA này được trình bày như sau:

1. Thai Tạng Giới.

Theo Đại Nhựt Kinh Sớ:

– Thứ nhất “A” ở phương Đông, cứ tiếng Phạn chữ Đông có nghĩa là phát động. Theo không gian, thì trong các phương, phương Đông là hơn hết. Đây dụ cho Bồ Đề Tâm là bước đầu tiên của muôn hạnh thuộc về Phật Bảo Tràng. Bảo Tràng Phật là Bồ Đề Tâm, cũng như trong quân ngũ, ngọn cờ là hướng đạo của binh sĩ, khi tới lui đều phải theo hiệu lịnh đó. Cũng thế, muôn hạnh của Bồ Tát cũng đều phải lấy Bồ Đề Tâm làm tiêu chuẩn.

– Thứ hai là chữ “Ā” (thuộc loại chữ A) có nghĩa là hạnh Bồ Đề ở phía Nam, thuộc về Khai Phu Hoa Vương. Khai Phu Hoa Vương Như Lai là hoa sen mãn giác.[71] Nếu chỉ có Bồ Đề Tâm mà không thực hành mười độ,[72] muôn hạnh thì giác hoa[73] không nở.

Nếu y theo Bồ Đề Tâm tu tập Bồ Tát hạnh,[74] hoa viên giác[75] được sức tự trưởng[76] dần nở tròn trịa tốt tươi.

– Thứ ba chữ “AM,” có nghĩa là thành tựu Bồ Đề Tâm ở phương Tây, thuộc về Phật A Di Đà. A Di Đà là Thọ Dụng Phật. Đây là chỉ cho khi thành tựu đạo quả, tức được hưởng pháp lạc chân thật vô lượng không thể nghĩ bàn.

– Thứ tư chữ “AH” có nghĩa vào Niết Bàn ở phương Bắc thuộc về Phật Thiên Cổ Lôi Âm. Thiên Cổ Lôi Âm Phật có nghĩa là phương tiện. Đây chỉ cho khi thành tựu đại quả, không những Như Lai riêng mình thọ dụng mà còn dùng “Thành Sở Tác Trí” diễn vô số phương tiện hóa độ chúng sanh và sau rốt lại cũng phương tiện mà vào Niết Bàn. “Bồ Đề Tâm Luận” có nói: “Phật A Di Đà thành tựu Bồ Đề, thọ dụng pháp quả,[77] Phật Thiên Cổ Lôi Âm việc làm đã xong vào Đại Niết Bàn là ý nghĩa này.”

– Thứ năm chữ “AH” (hay Ô) có nghĩa: đầy đủ phương tiện ở Trung ương thuộc Tỳ–lô–giá–na. Bản thân và thể hoa đài của Phật Đại Nhựt siêu tuyệt tám cánh cùng các phương sở,[78] chẳng phải cảnh giới tâm tư, chỉ Phật với Phật mới biết rõ hết. Nhưng vì nghĩ đến bản thệ[79] nên Đức Đại Nhựt mở tạng[80] Đại Bi để hướng dẫn chúng sanh vào Phật tuệ,[81] dùng thần lực gia trì hiện thân, khẩu, ý khắp trong các đường sanh tử. Đây tức là phương tiện vậy.

2. Kim Cang Giới.

MANDALA ngũ trí Như Lai[82] này được trình bày như sau:

– Đại Nhựt Quang Như Lai (VAIROCANA), biểu tượng cho Pháp Giới Thể Tánh Trí.[83] Chủng tử của Ngài là chữ “ÚM” (OM), tượng trưng cho kinh nghiệm vô biên toàn thể. Chữ ÚM cũng như những chủng tử tự khác mang sức mạnh sáng tác và cũng vì vậy có những lý thuyết về nguyên ngôn[84] tạo hóa (LOGOS: Le verbe créateur) và lý thuyết về thế giới chấn động (Théories des vibrations).[85] Trong ngũ uẩn, uẩn liên hệ với Ngài là thức. Thức hay ý thức chấp ngã của cá nhân sau khi kinh nghiệm được pháp tánh vô biên, biến thành ý thức vũ trụ dưới hình thức ngài Đại Nhựt Quang. Ý thức vũ trụ hay Pháp Giới Thể Tánh Trí được tượng trưng bằng không gian vô biên vừa xanh thẳm vừa xanh thắm, điều kiện tiên quyết của hiện hữu vì nó bảo toàn tất cả không phân biệt. Không gian ở đây là không gian của kinh nghiệm tâm linh, của năm uẩn: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức, toàn bộ chứ không phải chỉ riêng cho uẩn sắc dưới hình thức không gian toán học. Trong MANDALA Ngũ Trí Như Lai, Ngài Đại Nhựt Quang ở trung tâm, thân hình màu trắng trong, ngồi trên tòa Sư tử, tay bắt ấn Chuyển Pháp Luân (DHARMA CAKRA MUDRA).

– Bất Động Như Lai (AKSOBHYA) hay A–súc–bệ Như Lai, ở hướng Đông biểu tượng cho Đại Viên Cảnh Trí. Chủng tử của Ngài là chữ HỒNG (HUM), tượng trưng cho sự nhập thể và thành tựu. ÚM và HỒNG là hai giá trị bổ túc. ÚM là giải thoát, còn HỒNG là đem lại cứu độ. ÚM đi vào tổng thể, còn HỒNG từ tổng thể trở về hố thẳm của tâm hồn. Yếu tố nhân thế và tình cảm của chữ HỒNG biến Đức Phật thành Bồ Tát, cấp bậc nhỏ hơn nhưng đậm đà hơn, nhỏ hơn nhưng Đại Thừa hơn. HỒNG là vô biên trong hữu hạn, không thời gian trong thời gian, thiên thu trong chốc lát, “Không” trong “Sắc”[86] (sắc tức thị không, không tức thị sắc).

Ngài Bất Động Như Lai là vị Phật huyền bí trong năm vị Phật Thiền (DHYANI BUDDHAS),[87] tượng trưng cho hai khía cạnh của thực tại Không và Sắc. Trong Kim Cang Thừa (VAJRAYANA), hai Ngài Đại Nhựt và Bất Động có thể đổi vị trí cho nhau tùy thích ứng của tâm hồn mình lúc tọa thiền chú trọng về Không hay Sắc, giải thoát hay cứu độ. Ấn Ngài sử dụng là Xúc Địa Ấn (BHUMI SPARCA MUDRA).

Trong MANDALA của Kim Cang Giới, hình vẽ Ngài Bất Động Như Lai thân sắc xanh đậm, tay cầm kim cương, xuất hiện ngồi trên cặp bạch tượng oai nghi ở phương Đông lúc mặt trời mới mọc, hào quang của Ngài lại trong sáng như nước (Thủy Đại).

– Bảo Sanh Như Lai (RATNASAMBHAVA), biểu tượng cho Bình Đẳng Tánh Trí.[88] Chủng tử của Ngài là chữ TRẠM, tượng trưng cho sự giác ngộ của tâm thức, của Vô Phân Biệt Trí.[89]

Giác ngộ là một sự biến chuyển tâm linh, biến chuyển không phải là thay đổi trái bây giờ, khác trước kia, theo một chiều hướng suy luận nào đó, nhưng mà lại theo tiếng gọi của uẩn Thọ, nghĩa là sống động với tình thương, với Từ, Bi, Hỷ, Xả. Ngài là vị Như Lai ở phương Nam, thân sắc vàng chói như ánh mặt trời buổi trưa đúng ngọ, tượng trưng cho sự sung mãn của đời sống tâm linh. Màu sắc của đất, của bình đẳng cũng là vàng. Ấn quyết của Ngài, bàn tay mặt ngửa ra chạm đất (DANAMUDRA) biểu tượng cho sự bố thí, cho sự tặng cho chúng sanh ba bảo vật (Tam bảo) để nương theo đó mà đạt Không Tánh[90] của Ngài Bất Động và đạt vô ngã của Ngài Bảo Sanh, hầu tiến tới hòa đồng mật thiết với nhau.

Trong MANDALA này, hình vẽ của Ngài Bảo Sanh, kim thân tựa trên ngai ngựa, sắc thân vàng chói của Địa đại, Ngài ngự tại hướng Nam.

– Vô Lượng Quang Như Lai (AMITABHA), biểu tượng cho Diệu Quan Sát Trí.[91] Vô Lượng Quang Như Lai lại là Đức A Di Đà, chủng tử của Ngài là chữ HRIH và câu chú của Ngài là OM AMITABHA HRIH. HRIH là bản chất của Hỏa đại, sôi nóng bừng cháy, phóng hào quang hồng chiếu khắp nơi. Thân Ngài Vô Lượng Quang cũng đỏ thẳm như ánh nắng chiều của mặt trời lặn phương Tây. Hoàng hôn là giờ của thiền định nên Ngài bắt Ấn Thiền Định (DHYANA MUDRA). Cầm hoa sen nở tượng trưng cho quán tưởng. Uẩn liên hệ với Ngài là Tưởng. Từ óc phân biệt của Ý thức, Tưởng trở thành quán tưởng của Diệu Quan Sát Trí. Diệu Quan Sát Trí là trí phân biệt cùng tột của trí tuệ trong lộ trình đi từ Lý qua Sự.[92] Con mắt là tượng trưng cho quan sát, cho nên ngôi Ngài Vô Lượng Quang được đặt trên lưng con công, lông cánh đầy cả mắt.

Trí quan sát phân tích ở đây hoàn toàn trực giác, không phải lý luận vì căn bản của nó là Bình Đẳng Tánh Trí,[93] tổng hợp những tương quan của vũ trụ. Đứng trên bình diện cá thể và hành động (thế giới của Sự), chủng tử HRIH sống động, tỏa và nở ra trong câu chú ÚM MA NI PAD ME HUM. Đó là sức mạnh huyền bí của phản ứng không thời gian tính, ấy là tiếng nói của nội tâm, của tâm pháp (BODHIDHARMA) trực chỉ, bộc phát không lý trí.[94]

HRIH là chủng tử của Bồ Tát hạnh, của hành động không tính kết quả vì đã khước từ mọi quyền lợi cá nhân, trước sự cứu độ toàn thể chúng sanh. HRIH là tư tưởng kinh Kim Cang thành tựu trong hành động. Ánh sáng hồng chói của Hỏa đại cùng với Ngài Vô Lượng Quang xuất hiện trên lưng con công ở phương Tây.

– Bất Không Thành Tựu Như Lai (AMOGHASIDDHI) biểu tượng cho Thành Sở Tác Trí,[95] chủng tử của Ngài là chữ “A,” tượng trưng cho hành động. Nếu UM là tánh thể của vũ trụ, HỒNG là thành tựu của sự sống, thì AH là hành động tác thành. Những tràng phan ở các chùa Tây Tạng đều có viết ba chữ chủng tử: “UM AH HỒNG”, biểu tượng cho Thể, Ngôn và Tánh. Ngài Bất Không Thành Tựu là vị vương của Phong đại, của gió, của chuyển động, của hơi thở, của sự sống động. Ngài Bất Không còn là một hóa thân của Ngài A Di Đà, vì vậy là vị Như Lai của sự biến hóa vô song nối liền nội tâm và ngoại cảnh, biến chuyển tâm thành sắc, sắc thành tâm, bắc cầu giữa Chân đế và Tục đế[96].

Bất Không (AMAGHA) là Sự,[97] là thế giới của thành tựu, của pháp thuật (SIDDHI), của cứu độ, thực hiện Bồ Tát hạnh. Ngài Bất Không là bí mật nhất trong năm vị Như Lai. Ngay cả phương tiện Ngài cỡi cũng khác thường. Người chim hay “mệnh mệnh điểu” (GARUDA), tượng trưng cho biến hóa và Phong đại.

Uẩn liên hệ với Ngài là Hành, có nghĩa là ý chí, hay sức mạnh tinh thần, phần sống động nhất của tâm hồn chuyển biến thành Thành Sở Tác Trí. Thành Sở Tác Trí nghĩa là trí tuệ biến thành tác dụng, chuyển nghiệp thành duyên, chuyển ý niệm lý tưởng thành sống động sáng tác, chuyển thiên thu thành chốc lát, chuyển khổ hạnh thành giải thoát. Thành Sở Tác Trí lại chuyển những ý niệm khô khan về Lục đại thành những nguyên lý năng động. Địa là tiềm năng (Einstein), Thủy là điện năng, Hỏa là quang năng, Phong là động năng, Không là thời năng (Kuzyref), Thức là tâm năng (Carljung). Thành Sở Tác Trí là hành động của pháp thuật nhiệm mầu của trí tuệ và giải thoát.

Ngài Bất Không trong thế giới của Sự, ngoài bi và trí sẵn có, còn có thêm dũng để kiện toàn sứ mệnh. Chữ dũng của Ngài là khởi nguyên của lòng tin tưởng sắt đá rằng “Vạn Pháp Duy Tâm Tạo”[98] biểu tượng bằng “Vô Úy Ấn” (ABHAYA MUDRA) và bằng ứng thân của Ngài là Đức Di Lặc (MAITREYA) hay Ngài Thích Ca của tương lai. Tinh thần Vô Úy của Phật Giáo có nghĩa là sẵn sàng nhẫn nhục chấp nhận mọi đau khổ của thế gian để có thể giải thoát chúng sanh bằng cách tự giải thoát. Đó là một hành động huyền bí của Mật Tông: Nhảy vào cứu người ta mà lại cứu chính mình vì Đại Nguyện.

Trong MANDALA, Ngài Bất Không là vị Như Lai ở phương Bắc của gió lạnh, với mặt trời nửa đêm, của thế giới tâm linh huyền bí, hào quang của Ngài màu lục, kết tinh của màu xanh pháp tánh, vũ trụ của Ngài Đại Nhựt và màu vàng tình thương muôn loài của Ngài Bảo Sanh.


[1] Kinh Tô Tất Địa: Do Ngài Thiện Vô Uý dịch vào đời Đường năm Khai Nguyên thứ 4. Kinh Tô Tất Địa, kinh Đại Nhựt và kinh Kim Cang Đảnh là ba bộ kinh lớn của Mật Giáo.

[2] Tất địa: Thành tựu, Diệu thành tựu. Đắc thành tất địa: Đạt được thành tựu các kết quả vi diệu (giác ngộ, giải thoát…).

[3] Thần Biến Gia Trì: Là những thứ biến hoá lớn lao không thể nghĩ bàn mà các chư Phật, Bồ Tát thị hiện để giáo hóa chúng sanh.

[4] Nhất Thế: Một đời.         

[5] Nhiếp: Thâu tóm, bao gồm.

[6] Hiện chứng: Sự chứng ngộ ngay lập tức.

[7] Đại Giáo Vương Kinh: Kinh đệ nhất trong giáo pháp Đại Thừa.

[8] Chơn thật thể: Bản chất chân thật.

[9] Bản nguyên: Nguồn gốc căn bản, nền tảng chính yếu.

[10] Dung thông: hoà trộn, dung hoà cái này với cái kia cho hòa hợp nhau.

[11] Lục Đại: Phật Giáo cho rằng có sáu nguyên tố cấu thành nên vụ trụ này, gồm: đất, nước, gió, lửa, không khí, và ý thức của con người.

[12] Dung thông: Linh hoạt, uyển chuyển, thông suốt.

[13] Vô ngại: Không bị cản trở, thấm nhuần lan tỏa khắp mọi nơi.

[14] Châu biến: Bao quát, phổ biến. Lan tỏa hiện diện khắp nơi.

[15] Chơn Như: Chơn là chân thật, không hư vọng; Như là như thường, không có gì biến đổi. Chơn Như là chân lý của vũ trụ. Đồng nghĩa với Chơn Như là Phật Tánh, Lý Tánh, Pháp Thân, Pháp Tánh.

[16] Biểu dương: Thể hiện, phô bày và khẳng định một điều gì đó.

[17] Nhất Như: Trong Phật Giáo, Nhất Như có nghĩa là như một, như nhau, bình đẳng, không phân biệt.

[18] Không lường: Không thể đo lường được.

[19] Mười phương pháp giới: Là mười cõi giới trong Phật Giáo, bao gồm bốn cõi giới thuộc hàng Thánh (Phật, Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác) và sáu cõi giới thuộc hàng phàm (Thiên, Nhân, A–tu–la, Ngạ quỷ, Súc sanh, Địa ngục).  

[20] Sắc tướng: Hình dáng, hình tướng bên ngoài.

[21] Thù thắng: Hiếm có, phi thường, lỗi lạc, siêu việt.

[22] Thể: Bản chất, bản thể.

[23] Tướng: Hình dạng bề ngoài.

[24] Tam–ma–địa: Còn gọi là Tam–muội, nghĩa là Thiền định hay Đại định. Chỉ pháp tu đạt đến chỗ thân và tâm không còn xao động, dứt hết vọng tưởng, tà kiến, giác ngộ được chân lý.

[25] Khiếu: Khả năng đặc biệt có tính chất bẩm sinh đối với một loại hoạt động nào đó.

[26] Nhập diệu: Đạt đến chỗ hay, chỗ tuyệt diệu.

[27] Dị biệt: Khác biệt, khác hẳn hoặc trái ngược khi so sánh với nhau hoặc so với những cái cùng loại.

[28] Viễn ảnh: Nghĩa đen là hình ảnh ở xa xôi. Nghĩa bóng là ước mơ, mục tiêu ở tương lai.

[29] Quyền biến: Điều chỉnh một cách linh hoạt để thích nghi khi có sự thay đổi.

[30] Tối hậu: Cuối cùng, không còn có thể có gì khác nữa.

[31] Giáo lý sơ bộ: Giáo lý mang tính chất tạm thời chưa hoàn chỉnh, và sẽ còn được chỉnh lý, sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện.

[32] Thập Trụ Tâm: Thập có nghĩa là mười; Trụ có nghĩa là trụ vững, tồn tại; Tâm là tâm thức. Thập Trụ Tâm nghĩa đen là mười trạng thái tồn tại của tâm thức.

[33] Dị sanh: Sanh ra một cách khác thường. Kỳ dương: Con dê. Dị Sanh Kỳ Dương Tâm có nghĩa là tâm trí như một con dê được sanh ra một cách khác thường.

[34] Sở dục: Ham muốn, dục vọng của bản thân.

[35] Ngu Đồng Trì Trai Tâm: Tâm trí của người tầm thường ngu muội, chỉ biết làm theo số đông, ai biểu sao làm vậy, chứ không hiểu ý nghĩa gì.

[36] Vọng ngữ: Nói láo, nói sai sự thật.

[37] Ẩm tửu: Ẩm có nghĩa là uống, Tựu là rượu. Ẩm tửu là uống rượu.

[38] Tam Cang: là khái niệm luân thường đạo lý trong Nho Giáo, chỉ ba mối quan hệ cốt lõi trong xã hội phong kiến, gồm: quan hệ giữa vua và bề tôi, cha và con, chồng và vợ. Trong các mối quan hệ đó, người đi trước (vua, cha, chồng) có vai trò chủ đạo và người đi sau (bề tôi, con, vợ) phải phục tùng và kính trọng.

[39] Chữ “anh đồng” có nghĩa là chàng trai trẻ dũng cảm. Chữ “vô uý” có nghĩa là không sợ hãi. Anh Đồng Vô Uý Tâm là tâm trí của người dũng cảm, không biết sợ hãi.

[40] Cảnh trí: Sự nhận thức về thế giới khách quan. Chỉ chung những vật sắp xếp quanh mình.

[41] Thập giới: Mười giới cấm mà tu sĩ Phật Giáo phải thọ trì.

[42] Phái đồ: Tín đồ của tông phái.

[43] Tấn hoá khá lắm: Tiến hoá nhiều lắm.

[44] Chữ “duy” có nghĩa là đi theo, làm theo. Chữ “uẩn” có nghĩa là sự ngăn trở, che mắt, chướng ngại. Chữ “vô ngã” có nghĩa là không còn bản ngã. Duy Uẩn Vô Ngã Tâm có nghĩa là tâm trí không còn bản ngã, mà chỉ còn hành động theo năm cái uẩn (Sắc, Thọ, Tưởng, Hành Thức).

[45] Đời sống tâm linh cao đẳng: Đời sống tâm linh ở đẳng cấp cao.

[46] Câu–xá tông: Tông phái Tiểu Thừa dựa theo luận Câu–xá mà được thành lập.

[47] Thành Thật Tông: Tông phái Tiểu Thừa dựa trên bộ Thành Thật Luận làm nền tảng.

[48] Bào ảnh: Cái hư ảo tựa như bọt nước, tựa như cái bóng, chợt hiện lên rồi mất đi.

[49] Chữ “bạt nghiệp” có nghĩa là đánh dẹp hết các nghiệp. Chữ “nhân chủng” có nghĩa là cái hạt giống của triết lý về Nhân Duyên. Bạt Nghiệp Nhân Chủng Tâm là tâm trí đã giác ngộ về triết lý Thập nhị nhân duyên của Phật Giáo, tự tu hành để đánh bật các nghiệp chướng của mình.

[50] Vị kỷ: Ích kỷ, chỉ biết có mình.

[51] Mười hai cái nối dài: Ý chỉ về mười hai nhân duyên (Thập nhị nhân duyên). Trong vũ trụ quan của Phật Giáo, có mười hai cái để cấu thành sự sinh tồn của loài hữu tình, bao gồm: 1. Vô minh; 2. Hành; 3. Thức; 4. Danh sắc; 5. Lục xứ; 6. Xúc; 7. Thọ; 8. Ái; 9. Thủ; 10. Hữu; 11. Sinh; 12. Lão, tử. Trong trật tự này, yếu tố trước là nguyên nhân để cho yếu tố kế tiếp theo được sanh ra, khởi phát.

[52] Vô minh: Không sáng suốt, tâm thức mê mờ không hiểu biết.

[53] Các ngài trở nên minh: Các ngài trở nên sáng suốt, minh triết.

[54] Cuộc thế: Cuộc đời ở thế gian này.

[55] Tha Duyên Đại Thừa Tâm: Tâm trí tu hành theo giáo pháp Đại Thừa Phật Giáo, biết nghĩ tới việc gieo duyên giúp đỡ cho người khác đạt được giác ngộ.

[56] Giác Tâm Bất Sanh Tâm: Tâm trí giác ngộ về Lý Không.

[57] Tư tưởng “chân không”: Ý nói trình độ tâm thức xa lìa tất cả mọi hình tướng, dứt tuyệt khái niệm mang tính đối đãi Có – Không.

[58] Tam Luận Tông: Tông phái dựa trên học thuyết Trung Đạo, Không Luận, hay Tương Đối Luận, chủ trương không nhận có là có, không nhận không là không, có và không không chi phối được mình.

[59] Cái tưởng: Cái tư tưởng, tinh thần của người tu.

[60] Những chỗ thấp thường: Những chỗ thấp kém và tầm thường.

[61] Chữ “vô vi” trong Phật Giáo có nghĩa là hành động thuận theo tự nhiên, không cưỡng cầu. Chữ “nhất đạo” có nghĩa là một con đường duy nhất. nhất Đạo Vô Vi Tâm là tâm trí đi theo một con đường duy nhất, chính là thuận theo tự nhiên không cưỡng cầu.

[62] Thiên Thai Tông: Tông phái Phật Giáo Trung Quốc lấy kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Kinh Pháp Hoa) làm tông chỉ.

[63] Cực Vô Tự Tánh Tâm: Chữ “cực” nghĩa là cực kỳ, tột đỉnh. Chữ “Vô Tự Tánh” là một triết thuyết của Phật Giáo, nói đơn giản là Tánh Không, Lý Không. Cực Vô Tự Tánh Tâm nghĩa là tâm trí giác ngộ được Tánh Không một cách tột đỉnh.

[64] Bi thiết: Buồn rầu đau thương.

[65] Mờ ám: Mê mờ ám muội. Có nghĩa là không có sáng suốt, thiếu trí tuệ.

[66] Ðại Viên Cảnh Trí: Cảnh là gương. Đại Viên Cảnh là cái gương tròn lớn. Ðại Viên Cảnh Trí chỉ cho trí tuệ của Phật biết hết thảy mọi việc, giống như tấm gương tròn lớn có khả năng phản chiếu tất cả hình ảnh.

[67] Tối sơ: Đầu tiên, trước tiên, cái ban đầu nhất. Ngược lại với tối hậu.

[68] Pháp Giới Trí: Là trí tuệ siêu việt vô cùng vô tận của Đức Đại Nhựt Như Lai.

[69] Sau rốt: Cuối cùng, chung kết.

[70] Thành sở tác trí: Loại trí tuệ giúp hoàn thành viên mãn mọi việc mà không tạo nghiệp.

[71] Hoa sen mãn giác: Hoa sen đẹp mỹ mãn ở mọi góc cạnh. Hình ảnh ẩn dụ cho đức hạnh và giác ngộ viên mãn.

[72] Mười độ: Mười hạnh nguyện của Bồ Tát,: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ, phương tiện thiện xảo, nguyện, lực, và trí. 

[73] Giác hoa: Hoa giác ngộ.

[74] Bồ Tát hạnh: Hạnh nguyện của Bồ Tát là làm lợi ích cho mình và cho chúng sanh.

[75] Viên giác: Tánh giác ngộ tròn đầy.

[76] Sức tự trưởng: Khả năng tự sanh trưởng, phát triển.

[77] Pháp quả: Là thành quả của việc tu hành, thường được hiểu như là sự giác ngộ.

[78] Phương sở: Phương hướng và nơi chốn.

[79] Bản thệ: Bản nguyện, những lời nguyện ban đầu.

[80] Tạng: Kinh tạng, kinh điển.

[81] Phật tuệ: Trí tuệ của Phật. Ý chỉ sự giác ngộ.

[82] Ngũ trí Như Lai: Năm vị Phật Như Lai hiện thân của năm dạng trí huệ khác nhau.

[83] Pháp Giới Thể Tánh Trí: Là trí tuệ siêu việt của Đức Đại Nhựt Như Lai. Đây có thể coi là chân lý của vũ trụ.

[84] Nguyên ngôn: Lời nói đầu tiên, ngôn từ đứng đầu.

[85] Lý thuyết về thế giới chấn động có thể được hiểu ngắn gọn là tất cả mọi vật trong vũ trụ đều rung động ở một tần số khác nhau – từ các hạt nhỏ li ti, tới cơ thể, âm thanh, ánh sáng, cảm xúc, suy nghĩ.

[86] Trong Phật Giáo, “Sắc” và “Không” là hai khái niệm liên quan đến bản chất của vạn vật. “Sắc” (SĀMAÑÑA) đề cập đến hình tướng, vật chất, những gì có thể nhận biết được bằng giác quan. “Không” (ŚŪNYATĀ) chỉ sự trống rỗng, vô thường, không có thực thể cố định, không có bản chất riêng biệt.

[87] Năm vị Phật Thiền: Tên gọi khác của Ngũ Trí Như Lai.

[88] Bình Đẳng Tánh Trí: Trí tuệ nhận biết thể tánh bình đẳng của các pháp. Trí giúp nhận thức rằng không có sự khác biệt giữa ta và vật đối tượng.

[89] Vô Phân Biệt Trí: Trí tuệ siêu việt nhìn thấy bản chất của vạn vật một cách trực tiếp, không bị ảnh hưởng bởi định kiến hay sự phân tích của não bộ con người.

[90] Không Tánh: Nghĩa là “trống rỗng” hay “trống không.” Đây là một khái niệm trừu tượng và quan trọng của Phật Giáo.

Tiểu Thừa mô tả Tánh Không là trạng thái tâm của người xuất gia không còn phiền lụy, xả bỏ những vướng bận đời sống, gia đình… vì cho rằng mọi sự vật là giả hợp, trống rỗng, vô thường, vô ngã và khổ.

Đại Thừa sử dụng Tánh Không như danh từ, xem Không là vạn sự, vạn sự là Không, với hàm ý rằng vạn vật đều không thật có, không có thực thể, không có tự tánh riêng, tất cả các pháp dù là vật chất hay tinh thần chỉ là những dạng trình hiện, là nhân duyên giả hợp, chúng xuất phát từ Tánh Không, là không.

[91] Diệu Quan Sát Trí: Trí huệ quán sát thông suốt và diễn nói một cách thoải mái cho mọi đối tượng có thể hiểu được một cách dễ dàng.

[92] Lý và Sự: Trong Phật Giáo, “lý” và “sự” là hai khái niệm quan trọng, thường được hiểu là lý tính (lý) và hiện tượng (sự), hoặc nguyên lý và thực tế, thể hiện hai mặt của một vấn đề. “Lý” đại diện cho nguyên tắc, bản chất, lẽ phải, còn “sự” là hiện tượng cụ thể, biểu hiện bên ngoài, hay những gì đang diễn ra.

[93] Bình Đẳng Tánh Trí: Loại trí tuệ quán xét mình và mọi loài chúng sanh trong vũ trụ đều bình đẳng.

[94] Bộc phát không lý trí: Phát xuất ra tự nhiên, không kiểm soát.

[95] Thành Sở Tác Trí: Là một loại trí tuệ giúp cho người ta hoàn thành công việc mà không tạo thêm nghiệp.

[96] Chân đế và Tục đế: Chân đế nghĩa là chân lí tuyệt đối, được nhận biết bởi người giác ngộ. Tục đế (hay Thế đế) là những cái nhận thức mang tính tương đối trúng trong một hoàn cảnh nào đó, là cái hiều của người chưa giác ngộ.

[97] Sự: Sự vật, sự việc, hiện tượng.

[98] Vạn Pháp Duy Tâm Tạo: Nghĩa là vũ trụ do tâm của con người tạo ra.

0 0 votes
Article Rating
Nhận Thông Báo
Thông báo khi
guest

Bài Viết Liên Quan

Bài 115: Giữ lấy duyên Trời

Xuân qua hè đến xoay vòng Mái đầu điểm bạc, cõi lòng hoá sương Vinh hoa như giấc mộng trường...

linh phù chống trộm, bảo vệ tài sản mật phước tự

Linh Phù Chống Trộm Bảo Vệ Tài Sản

Tất cả những linh phù này đều có công năng linh dị, những người được Điểm đạo và được Tổ...

CHƯƠNG IV: PHƯƠNG PHÁP TU HÀNH

CHƯƠNG IV: PHƯƠNG PHÁP TU HÀNH Cũng như các tông phái khác trong Phật Giáo, sự tu hành của Mật...

xăm quan thánh đế quân

Xăm Quan Thánh 18

Xăm Quan Thánh 18: Trung Bình 第十八号簽 中平知君指擬是空華底事茫茫未有涯牢把脚根踏實地善為善應永無差碧仙注本份常安到䖏行虧為妄想便生災財源未遂徙勞力且宜向善保亨來 Âm: Tri quân chỉ nghĩ thị không hoa.Để sự mang mang vị...

tu thân

Bài 162: Tu thân

Tu thân không phải thành tiên, Mà tu để được bình yên giữa đời Thế gian dâu bể đổi dời,...

xăm quan thánh đế quân

Xăm Quan Thánh 36

Xăm Quan Thánh 36: Thượng Cát 第三十六号簽 上吉功名富貴自能為偶着先鞭莫問伊萬里鵬程君有份吳山頂上好鑽龜碧仙注榮華有份未得其時他人早逹切莫恨迟 Âm: Công danh phú quý tự năng vi,Ngẫu trước tiên tiên mạc...

quan thánh đế quân hộ mạng

Xăm Quan Thánh 79

Xăm Quan Thánh 79: Trung Bình 第七十九号簽 中平乾亥來龍仔细看坎居午向自當安若移辰丑陰陽逆門户凋零家道難碧仙注天然得個好規模心計雖多莫改圖妄作妄謀終是拙吉凶分界莫岐趨 Âm: Can Hợi lai long tử tế khan,Khảm cư Ngọ hướng tự...

mật phước tự, lợi ích thực tế của phật quyền

Bài 2: Học Phật Quyền có lợi ích thực tế gì?

Pháp này giúp thoát muộn phiền Không dùng thi thố kiếm tiền kiếm danh Pháp này đường tắt đi nhanh...

0 Comments
Bình chọn nhiều nhất
Mới nhất Cũ nhất
Inline Feedbacks
Xem tất cả bình luận
Chia Sẻ Bài Viết